Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4: Không lùi bước trước khó khăn

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2024, trong đó nhấn mạnh kiên quyết không lùi bước trước khó khăn; giữ vững bản lĩnh, kiên định, nhất quán thực hiện mục tiêu.

Kinh tế - xã hội tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực

Chính phủ thống nhất đánh giá trong tháng 4, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, ngày càng khó lường hơn; cạnh tranh chiến lược gay gắt, xung đột quân sự leo thang ở một số quốc gia, khu vực, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa sự ổn định, phát triển toàn cầu; kinh tế thế giới phục hồi chậm, còn gặp nhiều khó khăn, các yếu tố rủi ro gia tăng; thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định, bền vững của nhiều quốc gia, khu vực.

Trước bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát, kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự đồng hành, phối hợp chặt chẽ của Quốc hội và các cơ quan trong hệ thống chính trị; sự đồng thuận, tham gia tích cực của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và sự hỗ trợ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế; sự chỉ đạo, điều hành chủ động, quyết liệt, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, nhìn chung tốt hơn tháng 3 và 3 tháng đầu năm; tính chung 04 tháng đầu năm 2024 đạt kết quả tốt hơn cùng kỳ năm 2023 trên hầu hết các lĩnh vực.

Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy trên cả 3 khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,07% so với tháng trước, bình quân 04 tháng tăng 3,93% so với cùng kỳ. Thị trường tiền tệ, tỷ giá được điều hành linh hoạt, kịp thời; bảo đảm an toàn, thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Thu ngân sách Nhà nước 4 tháng ước đạt 43,1% dự toán năm, tăng 10,1% so với cùng kỳ, bảo đảm các nhiệm vụ chi, nhất là chi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách khác.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 4 ước đạt 61,20 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ; tính chung 04 tháng đạt 238,88 tỷ USD, tăng 15,2%, trong đó xuất khẩu tăng 15%, nhập khẩu tăng 15,4%; xuất siêu 8,4 tỷ USD. Giải ngân vốn đầu tư công 04 tháng đạt 17,46% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn 1,81% so với cùng kỳ. Trong 4 tháng đầu năm, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt gần 9,3 tỷ USD, tăng 4,5%; vốn FDI thực hiện ước đạt 6,3 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ; nhiều doanh nghiệp công nghệ lớn toàn cầu mong muốn hợp tác đầu tư quy mô lớn vào các ngành điện tử, bán dẫn, năng lượng tái tạo... của Việt Nam.

Thủ tướng chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4

Cả 3 khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ tiếp tục xu hướng phát triển ổn định, tích cực. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4 ước tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 6,3% so với cùng kỳ; tính chung 04 tháng tăng 6% so với cùng kỳ; Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) đạt 50,3 điểm, số lượng đơn đặt hàng mới tăng trở lại; một số địa phương tăng trưởng cao như Trà Vinh, Khánh Hòa, Phú Thọ, Bắc Giang, Thanh Hóa…

Tiếp tục thúc đẩy thi công các dự án hạ tầng giao thông chiến lược, quan trọng quốc gia; đã khánh thành tuyến đường bộ cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và thông xe kỹ thuật dự án Diễn Châu - Bãi Vọt, tạo tác động lan tỏa tích cực. Nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.

Khu vực dịch vụ tiếp tục phục hồi mạnh; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 tăng 2% so với tháng trước, tăng 9% so với cùng kỳ; tính chung 04 tháng tăng 8,5% so với cùng kỳ. Lượng khách quốc tế đến nước ta trong tháng 4 đạt gần 1,6 triệu lượt người, tăng 58,2% so với cùng kỳ; tính chung 04 tháng đạt 6,2 triệu lượt người, tăng 68,3% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2019 trước khi xảy ra đại dịch Covid-19.

Phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tích cực; trong tháng 4, có hơn 15,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động; tính chung 4 tháng, có 81,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 3% so với cùng kỳ. Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp; tập trung xử lý, thúc đẩy các dự án, công việc tồn đọng. Nhiều tổ chức quốc tế uy tín tiếp tục đánh giá tích cực về công tác chỉ đạo, điều hành và dự báo lạc quan về tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được đẩy mạnh; tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật đặc sắc nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày Quốc tế Lao động 01/5… Tích cực chuẩn bị tốt việc tổ chức kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Chương trình giáo dục phổ thông mới tiếp tục được triển khai đồng bộ; tích cực chuẩn bị các điều kiện cho kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia và tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2024.

Công tác khám, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh tiếp tục được chú trọng; cơ bản bảo đảm đủ thuốc, vật tư y tế. Công tác an sinh xã hội, việc làm và sinh kế cho người dân được quan tâm, thực hiện hiệu quả; trong 04 tháng đầu năm, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã hỗ trợ cho người dân gần 18,5 nghìn tấn gạo; các chương trình tín dụng chính sách xã hội đã hỗ trợ vay vốn cho trên 906 nghìn đối tượng.

Phong trào thi đua “Xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước từ nay đến năm 2025” được phát động và triển khai tích cực, hiệu quả trên toàn quốc. Đời sống của Nhân dân tiếp tục được nâng lên; tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập trong tháng không thay đổi và tăng lên so với cùng kỳ năm trước là 94,8% (tăng 0,7% so với tháng 3).

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, chuyển đổi số quốc gia tiếp tục được quan tâm, thúc đẩy. Tập trung chỉ đạo công tác chuẩn bị các tài liệu, báo cáo theo Chương trình làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và phục vụ Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV. Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, nhất là trong kỳ nghỉ lễ 30/4 - 01/5; tập trung chỉ đạo tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tiếp tục được chú trọng. Tích cực đấu tranh phản bác, ngăn chặn thông tin xấu, độc, xử lý nghiêm các vi phạm.

Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai chủ động, hiệu quả; tập trung thúc đẩy ngoại giao kinh tế, thực hiện các cam kết, thỏa thuận quốc tế; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên.

Bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, nước ta còn những hạn chế, bất cập và tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đứng trước nhiều áp lực, thách thức trước tình hình giá vàng, giá USD trên thế giới tăng cao và giá dầu thô, một số hàng hóa cơ bản biến động mạnh, các yếu tố rủi ro gia tăng.

Tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn thấp do nhu cầu tín dụng và sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu, tiếp cận tín dụng còn hạn chế; tỷ lệ nợ xấu tiếp tục xu hướng tăng; tiến độ triển khai gói cho vay 120 nghìn tỷ đồng chưa đáp ứng kỳ vọng. Hoạt động sản xuất, kinh doanh một số lĩnh vực còn nhiều khó khăn; sản xuất công nghiệp phục hồi còn chậm.

Tốc độ tăng cầu tiêu dùng còn thấp; thị trường xuất khẩu chưa phục hồi vững chắc. Các thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Quản lý thị trường vàng còn bất cập, giá vàng trong nước và quốc tế còn chênh lệch ở mức cao.

Hiện tượng thời tiết cực đoan, nhất là dông lốc, mưa đá tại miền núi phía Bắc, nắng nóng, hạn hán gay gắt kéo dài ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên, thiếu nước ngọt cục bộ, xâm nhập mặn tại vùng đồng bằng sông Cửu Long đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân, gây khó khăn cho công tác phòng, chống cháy rừng. Đời sống của một bộ phận người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai còn khó khăn.

Tình hình an ninh, trật tự trên một số địa bàn, tội phạm công nghệ cao, lừa đảo qua mạng còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Một số quy định pháp luật, thủ tục hành chính vẫn còn những vướng mắc, chưa được tháo gỡ kịp thời. Tâm lý sợ sai, né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm trong xử lý công việc của một bộ phận cán bộ, công chức chậm được khắc phục và chưa được xử lý hiệu quả…

Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới tiếp tục biến động phức tạp, khó lường; căng thẳng địa chính trị, cạnh tranh chiến lược nước lớn gay gắt; kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi nhưng chưa ổn định, sức ép lạm phát và lãi suất ở một số nền kinh tế dự báo có thể tiếp tục duy trì ở mức cao trong năm 2024. Đối với nước ta, nền kinh tế tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực nhưng khó khăn, thách thức còn rất lớn và nhiều hơn thời cơ, thuận lợi; các yếu tố bất lợi bên ngoài cùng những hạn chế, bất cập nội tại tiếp tục ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.

Kiên quyết không lùi bước trước khó khăn

Trước tình hình đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục quán triệt phương châm chỉ đạo, điều hành đã được xác định từ đầu năm và tinh thần “5 quyết tâm”, “5 bảo đảm”, “5 đẩy mạnh” đã đề ra tại Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 5 tháng 4 năm 2024; phát huy những kết quả đạt được; chủ động, tích cực, đổi mới, sáng tạo, kịp thời hơn nữa trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực theo các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận tại phiên họp

Kiên quyết không lùi bước trước khó khăn; giữ vững bản lĩnh, kiên định, nhất quán thực hiện mục tiêu ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và an sinh xã hội; tích cực tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh; phấn đấu hoàn thành và vượt mức các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra năm 2024; trong đó, chú trọng thực hiện những nội dung sau đây:

1. Các bộ, cơ quan, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao:

a) Theo dõi sát diễn biến tình hình quốc tế, khu vực; làm tốt công tác phân tích, dự báo; phối hợp chặt chẽ, hài hòa giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, có phản ứng chính sách kịp thời, phù hợp, hiệu quả đối với các vấn đề mới phát sinh. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi tối đa, giảm chi phí tiếp cận vốn tín dụng cho doanh nghiệp, người dân. Có giải pháp khơi thông gói tín dụng nhà ở xã hội 120 nghìn tỷ đồng; xử lý hiệu quả nợ xấu, các tổ chức tín dụng yếu kém, các ngân hàng kiểm soát đặc biệt để góp phần bảo đảm sự ổn định, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng.

b) Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách nhà nước; triển khai các giải pháp thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, mở rộng cơ sở thu, khai thác các nguồn thu còn dư địa; tiếp tục duy trì, phát huy kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định về hóa đơn điện tử; phấn đấu tăng thu, đồng thời kiểm soát chặt chẽ, triệt để tiết kiệm chi, nhất là chi thường xuyên để dành nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là cho các dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia và nguồn thực hiện cải cách tiền lương, an sinh xã hội.

c) Nắm chắc tình hình thị trường, cân đối cung cầu, giá cả hàng hóa để có giải pháp phù hợp, hiệu quả ổn định thị trường, giá cả, nhất là đối với các hàng hóa thiết yếu, nhà ở và lương thực, thực phẩm. Rà soát, phân tích kỹ các mặt hàng tăng giá để có giải pháp điều hành phù hợp; đánh giá tổng thể, kỹ lưỡng tác động của việc điều chỉnh giá điện, dịch vụ y tế, giáo dục và các mặt hàng do Nhà nước định giá lên lạm phát, hoạt động của doanh nghiệp và đời sống nhân dân để xác định đối tượng, thời điểm, mức độ và lộ trình điều chỉnh giá phù hợp, thận trọng, chắc chắn, bảo đảm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra.

d) Thúc đẩy mạnh mẽ và làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu); đồng thời khai thác tối đa các động lực tăng trưởng mới, nhất là từ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ, liên kết vùng, đô thị hóa, các ngành, lĩnh vực mới nổi.

đ) Bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước. Kiên quyết không để thiếu điện cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng; sẵn sàng phương án cung ứng, huy động tất cả các nguồn điện có thể, chủ động trong trường hợp cần thiết để bảo đảm cung cấp điện, ứng phó với các kịch bản có thể xảy ra, nhất là thời gian cao điểm nắng nóng; triển khai hiệu quả Kế hoạch thực hiện Quy hoạch Điện VIII; đẩy nhanh tiến độ các dự án đang triển khai, sớm đưa vào vận hành, khai thác. Tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, khuyến mại, kết nối, kích cầu tiêu dùng trong nước; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử.

e) Triển khai các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường lớn, tiềm năng, khai thác tối đa hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết; thúc đẩy ký kết FTA với các thị trường mới (Halal, châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh, Trung Đông…); tạo thuận lợi tối đa, hỗ trợ doanh nghiệp trong thông quan hàng hóa, đáp ứng kịp thời các tiêu chuẩn mới, tiêu chuẩn xanh đối với hàng hóa xuất khẩu.

g) Tích cực, chủ động thu hút đầu tư FDI có quy mô lớn, công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, Hydrogen... Tập trung xử lý, giải quyết vướng mắc, nhất là về cơ chế, chính sách ưu đãi, thủ tục pháp lý, mặt bằng... để đẩy nhanh triển khai dự án đầu tư tại Việt Nam, kịp thời báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền trong trường hợp cần thiết. Tập trung xử lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy và phát huy hiệu quả nguồn lực đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nhất là trong các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án nhà ở xã hội, tạo thuận lợi tối đa cho người dân được mua nhà ở xã hội.

h) Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt và thu hút mọi nguồn lực xã hội, tăng cường thu hút đầu tư tư nhân; tập trung thúc đẩy tiến độ thi công các dự án, công trình trọng điểm, nhất là các công trình hạ tầng giao thông chiến lược, quan trọng quốc gia, dự án liên vùng, liên tỉnh. Tập trung hoàn thành các quy hoạch còn lại trong quý II năm 2024; khẩn trương ban hành và triển khai có hiệu quả Kế hoạch thực hiện các quy hoạch đã được phê duyệt.

i) Tập trung hoàn thiện thể chế, pháp luật, đẩy mạnh cải cách, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Tiếp tục phát huy hiệu quả cơ chế Ban Chỉ đạo, Tổ công tác, Thành viên Chính phủ làm việc với các địa phương; các Hội đồng điều phối vùng, thúc đẩy liên kết vùng gắn với tăng cường xúc tiến đầu tư. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xử lý từng bước chắc chắn, tháo gỡ triệt để những tồn tại, hạn chế, vướng mắc kéo dài, nhất là trong phân cấp, phân quyền; quyết liệt sửa đổi, trình cấp có thẩm quyền sửa đổi các quy định pháp luật còn vướng mắc, bất cập đã được Tổ công tác của Quốc hội, Chính phủ chỉ ra.

k) Khẩn trương thống kê, rà soát, đề xuất phương án cắt giảm, đơn giản hóa giấy phép liên quan đến hoạt động kinh doanh theo Quyết định số 104/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ theo hướng dẫn của Văn phòng Chính phủ, gửi kết quả rà soát, phương án về Văn phòng Chính phủ chậm nhất trong tháng 5 để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Đẩy nhanh tiến độ thực thi các phương án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính nội bộ, quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện tích hợp thông tin vào thẻ căn cước theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Luật căn cước 2023 và rà soát, cập nhật, điều chỉnh, bổ sung dữ liệu của hệ thống thông tin do bộ, ngành quản lý với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong tháng 6 năm 2024.

l) Tập trung triển khai các nhóm dịch vụ công trực tuyến liên thông, rà soát tái cấu trúc quy trình tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia năm 2024 theo Quyết định số 206/QĐ-TTg ngày 28 tháng 02 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả; tiếp tục rà soát, đánh giá, cấu trúc lại quy trình đối với các dịch vụ công trực tuyến đang được tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, bảo đảm nguyên tắc lấy người dùng làm trung tâm.

m) Ưu tiên nguồn lực, tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06), bảo đảm an toàn hệ thống thông tin, an ninh mạng được Thủ tướng Chính phủ giao tại Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, Chỉ thị số 04/CT-TTg ngày 11 tháng 02 năm 2024, Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 23 tháng 02 năm 2024, Công điện số 33/CĐ-TTg ngày 07 tháng 4 năm 2024, bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Tổ chức các hội nghị chuyên đề về phát triển kinh tế số theo Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số.

n) Tiếp tục thực hiện sắp xếp bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; các bộ, cơ quan, địa phương chưa hoàn thành phê duyệt vị trí việc làm cần khẩn trương hoàn thành việc phê duyệt vị trí việc làm đối với các cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý; định kỳ rà soát, cập nhật, điều chỉnh vị trí việc làm, bảo đảm phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ giao trong từng giai đoạn. Các bộ quản lý ngành, lĩnh vực chủ động tích cực nắm bắt khó khăn vướng mắc của các bộ, cơ quan, địa phương trong quá trình thực hiện vị trí việc làm để hướng dẫn và kịp thời có giải pháp tháo gỡ, thúc đẩy phù hợp.

o) Thực hiện hiệu quả các chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội. Bộ Tài chính trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ việc thành lập Quỹ xóa nhà tạm, nhà dột nát trước ngày 20 tháng 5 năm 2024 theo chỉ đạo tại văn bản số 2899/VPCP-KTTH ngày 01 tháng 5 năm 2024 của Văn phòng Chính phủ. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài chính, các cơ quan liên quan đề xuất Thủ tướng Chính phủ việc tổ chức công bố thành lập và kêu gọi đóng góp Quỹ, công bố trước ngày 25 tháng 5 năm 2024.

p) Tiếp tục khẩn trương đầu tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chú trọng phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường. Tập trung triển khai công tác phòng, chống, khắc phục nhanh hậu quả thiên tai, nhất là dông lốc, nắng nóng, mưa đá, hạn hán, xâm nhập mặn... Chủ động xây dựng kế hoạch, phương án điều tiết, bảo đảm đủ nước cho sinh hoạt, cân đối nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, sản xuất điện.

q) Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả; đẩy mạnh ngoại giao kinh tế. Tiếp tục chủ động triển khai có hiệu quả các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế; tích cực đề xuất ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế mới trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, năng lượng, chuyển đổi số, môi trường, tăng trưởng xanh phù hợp với chủ trương, chính sách, định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

r) Các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được giao chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các Luật, Nghị quyết đã được Quốc hội khóa XV thông qua, chỉ đạo quyết liệt, bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và yêu cầu thực tiễn để khẩn trương soạn thảo, trình, ban hành văn bản bảo đảm chất lượng và tiến độ, trong đó quán triệt nguyên tắc tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực hợp lý, tăng cường giám sát, kiểm tra, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm. Tập trung mọi nguồn lực cho công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện các tài liệu, tờ trình, báo cáo để bảo đảm chất lượng tốt nhất trình Hội nghị Trung ương 9 khóa XIII và Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV.

2. Về nhiệm vụ cụ thể của các bộ, cơ quan, địa phương: Từng bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện các nội dung tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị quyết này.

II. Về tình hình phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công

Chính phủ cơ bản thống nhất với Báo cáo số 3307/BC-BKHĐT ngày 03 tháng 5 năm 2024 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đến hết tháng 4 năm 2024, các bộ, cơ quan, địa phương đã phân bổ, giao chi tiết 631,8 nghìn tỷ đồng, đạt 95,2% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; giải ngân vốn đầu tư công khoảng 115,9 nghìn tỷ đồng, đạt 17,46% kế hoạch. Tuy nhiên, vẫn còn 21/44 bộ, cơ quan và 23/63 địa phương chưa phân bổ hoặc phân bổ chưa hết kế hoạch vốn đã được Thủ tướng Chính phủ giao; 06 bộ, cơ quan chưa thực hiện giải ngân. Để tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, Chính phủ yêu cầu:

1. Các bộ, cơ quan, địa phương quyết liệt chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương chuyển nguồn số vốn được phép kéo dài của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, thanh tra về việc thực hiện, tiến độ triển khai các nhiệm vụ, dự án thuộc đơn vị mình quản lý.

2. Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Ngân hàng Chính sách xã hội khẩn trương thực hiện giải ngân kế hoạch vốn đầu tư năm 2024.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, cơ quan, địa phương liên quan khẩn trương tổng hợp, báo cáo Chính phủ để trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh giảm kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương năm 2024 tương ứng với số vốn các bộ, cơ quan trung ương, địa phương chưa phân bổ chi tiết cho các nhiệm vụ, dự án đến ngày 15 tháng 5 năm 2024 (không bao gồm số vốn dự kiến giao để thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia, vốn của bộ, cơ quan trung ương chỉ có 01 dự án trong năm kế hoạch, vốn dự kiến bố trí cho nhiệm vụ, dự án đang trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025) để điều chuyển, bổ sung cho các bộ, cơ quan trung ương, địa phương khác có nhu cầu bổ sung vốn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân các nhiệm vụ, dự án.

4. Bộ Tài chính tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý thủ tục về kiểm soát chi vốn trong nước và đơn rút vốn của các nhà tài trợ bằng chứng từ điện tử, chữ ký số, đơn giản hóa quy trình kiểm soát chi và hồ sơ yêu cầu rút vốn; tăng cường hậu kiểm trong giải ngân vốn đầu tư công. Nghiên cứu, tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung các quy định về cho vay lại từ nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài theo hướng tinh giản, hài hòa tối đa các quy định, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ.

5. Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn các cơ quan, địa phương triển khai hiệu quả công tác giải phóng mặt bằng, cấp mỏ vật liệu xây dựng và hỗ trợ nhà thầu trong xác định giá bồi thường thuê đất để khai thác các mỏ vật liệu xây dựng trên cơ sở quy định của pháp luật.

III. Về tình hình triển khai 3 Chương trình mục tiêu quốc gia

Chính phủ cơ bản thống nhất với Báo cáo số 3302/BC-BKHĐT ngày 03 tháng 5 năm 2024 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Để triển khai thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia thời gian tới bảo đảm chất lượng, hiệu quả, có trọng tâm trọng điểm, Chính phủ yêu cầu:

1. Các bộ, cơ quan liên quan và các địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao chủ động rà soát để kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn, quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Chương trình công tác năm 2024 của Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia ban hành kèm theo Quyết định số 54/QĐ-BCĐCTMTQG ngày 08 tháng 4 năm 2024, phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu được Quốc hội giao, quyết tâm giải ngân 100% kế hoạch vốn được giao.

2. Cơ quan được giao chủ quản thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia khẩn trương chỉ đạo nghiên cứu và triển khai thực hiện các cơ chế đặc thù đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 111/2024/QH15 ngày 18 tháng 01 năm 2024; kịp thời tổng hợp những khó khăn, vướng mắc (nếu có) gửi các Bộ, cơ quan liên quan để được hướng dẫn thực hiện, đồng gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, tháo gỡ.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư và 03 Bộ, cơ quan Chủ chương trình mục tiêu quốc gia: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc tiếp tục phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các bộ, cơ quan liên quan trong công tác đào tạo, tập huấn, theo dõi, giám sát để kịp thời nắm bắt thông tin, tổng hợp các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, trả lời các địa phương hoặc báo cáo Ban Chỉ đạo Trung ương xem xét, xử lý theo thẩm quyền.

4. Các Bộ, cơ quan Chủ chương trình mục tiêu quốc gia: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc khẩn trương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan là chủ dự án thành phần thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia tổng hợp đầy đủ phương án phân bổ kinh phí sự nghiệp thực hiện từng chương trình mục tiêu quốc gia trong dự toán ngân sách nhà nước năm 2024 theo đúng quy định, gửi Bộ Tài chính trước ngày 12 tháng 5 năm 2024 để tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định trước ngày 15 tháng 5 năm 2024.

IV. Về việc kéo dài thời hạn thực hiện giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn tại Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2023 và Nghị quyết số 59/NQ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2023 của Chính phủ

Chính phủ thống nhất chủ trương theo kiến nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Tờ trình số 53/TTr-NHNN ngày 03 tháng 5 năm 2024 về kéo dài thời hạn thực hiện giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn tại Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2023 và Nghị quyết số 59/NQ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2023 của Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao khẩn trương phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xem xét, quyết định và hướng dẫn tổ chức tín dụng triển khai thực hiện, bảo đảm tính liên tục của chính sách, phù hợp, chặt chẽ, khả thi, hiệu quả, công khai, minh bạch, đúng quy định pháp luật và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm soát và giám sát việc thực hiện chính sách theo quy định pháp luật, không để trục lợi, thất thoát, vi phạm pháp luật.

V. Về việc báo cáo Chính phủ theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Quy chế làm việc của Chính phủ đối với việc hoàn thiện hồ sơ đề xuất điều chỉnh chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030

Theo Quy chế làm việc của Chính phủ, tại Phiên họp, Ủy ban Dân tộc đã có báo cáo Chính phủ về việc hoàn thiện hồ sơ đề xuất điều chỉnh chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.

Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc, tổng hợp, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện Nghị quyết này.

VOV

Nguồn VOV: https://vov.vn/chinh-tri/nghi-quyet-phien-hop-chinh-phu-thuong-ky-thang-4-khong-lui-buoc-truoc-kho-khan-post1094168.vov