Bản sắc văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên hội nhập quốc tế

Bản sắc văn hóa Việt Nam không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là động lực hội nhập quốc tế, khẳng định vị thế đất nước trên trường quốc tế.

ĐBQH. Bùi Hoài Sơn. (Nguồn: Quốc hội)

ĐBQH. Bùi Hoài Sơn. (Nguồn: Quốc hội)

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khi thế giới liên tục thay đổi bởi công nghệ và những giá trị mới, sức mạnh lớn nhất của dân tộc Việt Nam không nằm ở quy mô lãnh thổ hay tiềm lực vật chất, mà chính là bản sắc văn hóa. Đây là tài sản vô hình nhưng giàu sức sống, đã nuôi dưỡng dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là "hộ chiếu mềm" đưa hình ảnh Việt Nam đến gần hơn với bạn bè toàn cầu.

Nghị quyết 59-NQ/TW và chiến lược phát triển văn hóa

Gần đây, tinh thần Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế toàn diện đã thấm sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống. Nghị quyết khẳng định một tư duy mới: Hội nhập quốc tế không chỉ dừng ở kinh tế hay ngoại giao, mà phải mở rộng sang văn hóa - con người, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, truyền thông và các giá trị phi vật thể của dân tộc. Văn hóa không thể đứng ngoài cuộc chơi toàn cầu, mà phải là một chủ thể tích cực, là động lực tham gia kiến tạo hình ảnh Việt Nam trong thế giới đầy cạnh tranh nhưng cũng đầy cơ hội.

Với tinh thần đó, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 vừa mới ban hành đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng: Lần đầu tiên Việt Nam xác định rõ 10 ngành công nghiệp văn hóa chủ chốt, 6 ngành trọng tâm và đặt mục tiêu đóng góp 7% GDP, tốc độ tăng trưởng 10%/năm - những con số thể hiện khát vọng mạnh mẽ về một “quốc gia sáng tạo”. Chiến lược này chính là lời khẳng định, văn hóa không chỉ là di sản, mà còn là động lực phát triển, sức mạnh mềm và là công cụ hội nhập quốc tế hiệu quả nhất.

Tôi đã nhiều lần bắt gặp hình ảnh Việt Nam rất đẹp nơi đất khách: Một buổi biểu diễn nhã nhạc cung đình Huế giữa thủ đô Paris; tiếng trẻ em gốc Việt ê a học tiếng mẹ đẻ trong một ngôi trường nhỏ ở California; một show thời trang sử dụng lụa Việt Nam được tổ chức trong Tuần lễ thiết kế Paris; hay những quán phở, quán cà phê Việt Nam trở thành biểu tượng ẩm thực của cộng đồng quốc tế. Mỗi lần chứng kiến như vậy, tôi không chỉ cảm thấy tự hào, mà còn hiểu rằng bản sắc văn hóa Việt Nam đang âm thầm trở thành nhịp cầu kết nối trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng.

Văn hóa giúp hội nhập trở nên sâu sắc, bền vững hơn

Thế nhưng, văn hóa không bén rễ và lan tỏa chỉ nhờ sự tự nhiên. Nó cần được nuôi dưỡng, bảo vệ và phát huy một cách chiến lược. Hội nhập quốc tế nếu thiếu bản sắc sẽ khiến dân tộc dễ bị hòa tan; còn giữ bản sắc mà thiếu tinh thần hội nhập sẽ khiến chúng ta đứng ngoài sự phát triển của thời đại. Cân bằng hai điều đó là một bài toán không dễ nhưng Nghị quyết 59 và Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đã chỉ ra một con đường rõ ràng, lấy văn hóa làm trung tâm, lấy sáng tạo làm động lực, lấy sức mạnh mềm làm phương thức tiếp cận thế giới.

Trên con đường ấy, hai nhiệm vụ lớn nổi lên: Giữ gìn căn tính dân tộc từ bên trong và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới bằng những giá trị văn hóa mới, sống động và hấp dẫn.

Giữ gìn từ bên trong, trước hết là nuôi dưỡng lòng tự hào văn hóa cho chính người Việt. Điều này bắt đầu từ giáo dục: Cách dạy văn hóa, lịch sử, di sản trong nhà trường phải thay đổi; cần đưa trẻ em đến với bảo tàng, di sản, không gian văn hóa; cần khuyến khích trải nghiệm hơn là ghi nhớ. Văn hóa không phải bài học thuộc lòng, mà là cảm xúc, là câu chuyện, là bản lĩnh để mỗi người Việt Nam đi ra thế giới nhưng vẫn giữ được mình.

Cũng từ bên trong, chúng ta phải xây dựng hệ sinh thái sáng tạo đủ mạnh để tạo ra những sản phẩm văn hóa có khả năng cạnh tranh toàn cầu. Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đã mở ra một hướng đi rõ ràng: Điện ảnh, âm nhạc, thời trang, thiết kế, nghệ thuật biểu diễn, game, quảng cáo, thủ công mỹ nghệ, du lịch văn hóa… là những ngành có tiềm năng lớn để tạo dấu ấn Việt Nam trên bản đồ sáng tạo thế giới. Nhưng tiềm năng chỉ thành sức mạnh khi có thể chế phù hợp: Chính sách đầu tư thông minh, ưu đãi thuế, quỹ văn hóa nghệ thuật, mô hình hợp tác công - tư, đổi mới sáng tạo theo chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn nghề nghiệp theo UNESCO, WIPO… Một quốc gia mạnh về công nghiệp văn hóa mới có thể mạnh về sức mạnh mềm.

Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng để phát triển văn hóa, cần thêm nhiều người trẻ góp sức. Ảnh minh họa. (Ảnh: M.Anh)

Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng để phát triển văn hóa, cần thêm nhiều người trẻ góp sức. Ảnh minh họa. (Ảnh: M.Anh)

Còn để lan tỏa ra thế giới, văn hóa Việt Nam cần những “đại sứ” mới, không chỉ là nghệ sĩ hay nhà ngoại giao, mà là mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là gần 6 triệu kiều bào, những người mang theo bản sắc Việt Nam ở hơn 130 quốc gia. Họ chính là hiện thân của văn hóa Việt Nam trong đời sống quốc tế. Nghị quyết 59 nhấn mạnh vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngay trong trục hội nhập văn hóa, điều này cho thấy Đảng và Nhà nước đã nhận ra đúng đắn nguồn lực quý giá này.

Nhưng hội nhập văn hóa ngày nay không chỉ diễn ra ở đời thực. Nó diễn ra trên không gian số - nơi biên giới trở nên mờ nhạt. Một video về áo dài có thể lan đến hàng chục triệu người, một bản nhạc Việt Nam có thể trở thành xu hướng toàn cầu, một bộ phim Việt Nam có thể được chiếu ở nhiều nền tảng OTT quốc tế. Sự lan tỏa này chỉ thực sự hiệu quả nếu đi kèm với chiến lược số hóa di sản, số hóa ngôn ngữ, số hóa sản phẩm văn hóa, điều mà Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và các nghị quyết gần đây về chuyển đổi số văn hóa đang hướng đến.

Tất nhiên, hành trình đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới không phải không có thách thức. Có những giá trị bị phai mờ vì thương mại hóa quá mức. Có những yếu tố truyền thống bị cắt gọt để phù hợp với thị hiếu quốc tế. Có những biểu tượng văn hóa bị hiểu sai hoặc sao chép lệch lạc. Nhưng chính những thách thức ấy lại nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm lớn lao: Phải bảo vệ bản sắc bằng tri thức, bằng pháp lý, bằng truyền thông, bằng cách kể câu chuyện Việt Nam bằng chính tiếng nói của mình, chân thực, nhân văn và giàu sáng tạo.

Quan trọng nhất, theo tôi, chính là sự tự tin. Chưa bao giờ Việt Nam có vị thế như hôm nay: Một đất nước ổn định, năng động, sáng tạo; một cộng đồng người Việt Nam toàn cầu gắn bó; một nền văn hóa có chiều sâu; một dân tộc đang muốn cống hiến nhiều hơn cho thế giới. Khi tự tin vào bản sắc của chính mình, chúng ta không sợ hội nhập; khi tự tin vào năng lực sáng tạo, chúng ta không ngại cạnh tranh; khi tự tin vào giá trị văn hóa rộng mở, chúng ta có thể bước ra thế giới bằng tư thế của một quốc gia văn hiến, nhân văn và hiện đại.

Điều làm tôi xúc động nhất mỗi khi đứng ở một đất nước khác là nhìn thấy hình ảnh Việt Nam, không chỉ là niềm tự hào cá nhân. Đó là cảm giác rằng dân tộc mình đang thực sự hiện diện, đang được lắng nghe, đang được tôn trọng. Một đất nước với bề dày văn hiến, với tinh thần quật cường, với bản sắc độc đáo, nay đang cất lên tiếng nói mạnh mẽ hơn trong cộng đồng quốc tế.

Hội nhập quốc tế, nếu có một “linh hồn”, thì đó chính là văn hóa. Bởi văn hóa làm cho hội nhập trở nên sâu sắc hơn, nhân văn hơn, bền vững hơn. Khi văn hóa trở thành động lực phát triển như tinh thần Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và Nghị quyết 59 đã đặt ra thì con đường đưa Việt Nam đến với thế giới không còn là câu chuyện của tương lai xa, mà là hành trình chúng ta đang đi từng ngày, bằng sự tự hào, trí tuệ và khát vọng của chính dân tộc mình.

ĐBQH. Bùi Hoài Sơn

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/ban-sac-van-hoa-viet-nam-trong-ky-nguyen-hoi-nhap-quoc-te-336204.html