Bạo lực giới trên cơ sở lựa chọn giới tính thai nhi đang trở thành vấn đề nghiêm trọng
Việt Nam sẽ dư thừa 1,5 triệu nam giới vào năm 2034 và 2,5 triệu nam giới vào năm 2059 nếu mức độ mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn cao như hiện nay.
Đây là thông tin được đưa ra tại tập huấn về cách thức truyền thông về lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới do Cục Dân số (Bộ Y tế) và Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA) tổ chức ngày 28-29/11 tại Hải Phòng.
Theo đó, bạo lực giới trên cơ sở lựa chọn giới tính thai nhi đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng tại Việt Nam, gây ra nhiều hệ lụy về xã hội, kinh tế. Hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) bắt đầu xuất hiện từ năm 2006 với tỷ số giới tính khi sinh đạt 109,8 bé trai/100 bé gái và liên tục gia tăng.
Đến nay, tỷ lệ này vẫn duy trì ở mức trên 112, cao hơn mức sinh học tự nhiên (103-106 bé trai/100 bé gái). Đặc biệt, tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng như Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, con số này còn lên đến 120 bé trai/100 bé gái.
Bà Hoàng Thị Thơm - Phó Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế - cho biết, MCBGTKS sẽ dẫn đến tính trạng "thừa nam thiếu nữ" trong tương lai, làm biến đổi chỉ số nhân khẩu học và cụ thể là tăng áp lực kết hôn sớm đối với phụ nữ, tăng nhu cầu dịch vụ tình dục, gia tăng buôn bán phụ nữ kéo theo bạo lực tình dục đối với phụ nữ, làm ảnh nặng nề đến sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, và sức khỏe tâm thần của phụ nữ.
Do ảnh hưởng của nền văn hóa châu Á, trọng nam khinh nữ, đánh giá vai trò của nam giới là trụ cột trong gia đình… nên tâm lý ưa thích và mong muốn có con trai để "sau này về già có chỗ dựa dẫm"; "nối dõi tông đường, kéo dài dòng họ"… đã ăn sâu trong tâm thức của nhiều người Việt Nam. Điều này cũng trở thành nền văn hóa truyền thống của người Việt Nam qua nhiều thế hệ. Tâm lý yêu thích con trai là nguyên nhân gốc rễ của hiện tượng MCBGTKS ở Việt Nam.
"Hiện nay, hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam chưa phát triển, đặc biệt là ở nông thôn, nhiều người già không có lương hưu, hay trợ cấp xã hội… nên mong mỏi con trai là trụ cột về tinh thần, là trụ cột về kinh tế cho cả gia đình. Chính sự mong mỏi có con trai cùng với những tiến bộ khoa học công nghệ trong sản khoa… không ít gia đình đã lạm dụng những tiến bộ này để thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh" - bà Thơm nói.
Chuyên gia về Giới và Nhân quyền Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA) Hà Thị Quỳnh Anh cho biết, lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới làm hạn chế số trẻ em gái được sinh ra trong gia đình, tạo điều kiện cho các bậc cha mẹ có một hoặc nhiều con trai hơn mà không vượt quá số con được cho phép sinh ra. Lựa chọn giới tính có thể thực hiện trước hoặc sau sinh dẫn đến tình trạng mất cân bằng.
MCBGTKS không chỉ tác động đến cá nhân và gia đình, còn để lại những hậu quả sâu sắc cho xã hội. Nếu tình trạng này tiếp tục, sự "thừa nam thiếu nữ" sẽ làm gia tăng áp lực hôn nhân, nạn buôn bán phụ nữ, mại dâm và bạo lực tình dục. Đồng thời, nó làm suy giảm vai trò, vị thế của phụ nữ trong xã hội, đẩy họ vào tình thế dễ bị tổn thương hơn.
Đáng lo ngại hơn, vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh còn làm biến đổi cấu trúc nhân khẩu học, tạo thách thức lớn trong việc đảm bảo lực lượng lao động, phát triển hệ thống an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe.
Để giải quyết tình trạng mất cân bằng tỷ suất giới tính khi sinh, Việt Nam đã tăng cường hoàn thiện và thực thi chính sách pháp luật liên quan đến bình đẳng giới, được cụ thể hóa trong Luật Bình đẳng giới do Quốc hội ban hành; Pháp lệnh Dân số 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị định số 104/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số; Nghị định 114/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em; Chiến lược Dân số qua các giai đoạn và Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới đều quy định nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính khi sinh…
"Việt Nam cần tập trung vào các nhóm giải pháp chính: đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức, ngăn chặn vấn đề lựa chọn giới tính thai nhi, thúc đẩy giá trị của trẻ em gái và bình đẳng giới; thực hiện các điều luật nghiêm cấm sử dụng công nghệ trong xác định giới tính thai nhi và đình chỉ thai nghén. Bên cạnh đó, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội cải thiện vấn đề bình đẳng giới, ban hành các hệ thống an sinh xã hội chú trọng đến đối tượng là phụ nữ và trẻ em" - bác sĩ Mai Trung Sơn, Cục Dân số - kiến nghị.