Bảo tồn rừng và sinh kế cộng đồng tại vùng đệm các vườn quốc gia
Tại vườn quốc gia Ba Vì, Trung tâm Khuyến nông quốc gia (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) vừa tổ chức tọa đàm kết nối bảo tồn rừng và sinh kế cộng đồng tại vùng đệm các vườn quốc gia, kinh nghiệm và bài học từ thực tiễn.

Quang cảnh buổi tọa đàm.
Việt Nam hiện có 176 khu rừng đặc dụng, trong đó gồm 34 vườn quốc gia, 56 khu dự trữ thiên nhiên, 14 khu bảo tồn loài-sinh cảnh, 54 khu bảo vệ cảnh quan… với diện tích hơn 2,37 triệu ha. Đây là hệ thống có vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ các nguồn gene quý hiếm, duy trì cân bằng sinh thái.
Thời gian qua, các mô hình phát triển sinh kế dựa vào tài nguyên rừng ở nhiều vườn quốc gia như: Ba Vì, Cúc Phương, Phong Nha-Kẻ Bàng, Pù Mát, Bạch Mã, Cát Tiên… đang mang lại hiệu quả tích cực. Trong đó, mô hình nông-lâm kết hợp bền vững cho thấy độ che phủ cây xanh được duy trì ổn định, lượng phát thải khí nhà kính giảm, thu nhập tăng từ 20 đến 40% so với sản xuất đơn thuần.
Thời gian tới các địa phương cần hoàn thiện khung chính sách về đồng quản lý, chia sẻ lợi ích và khuyến khích đầu tư vào sinh kế xanh, bảo tồn thiên nhiên và kinh tế tuần hoàn trong vùng đệm.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia Hoàng Văn Hồng
Mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng hiệu quả kinh tế và sinh thái rõ rệt khi thu nhập tăng trung bình từ 1,5 đến 3 lần so với trồng truyền thống. Mô hình du lịch sinh thái cộng đồng góp phần hình thành các cộng đồng đồng quản lý rừng gắn với du lịch, phù hợp với xu hướng quản lý rừng dựa vào cộng đồng hiện nay…
Vùng đệm của các khu rừng đặc dụng và vườn quốc gia là nơi sinh sống của hàng triệu người dân, phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy sự kết nối giữa bảo tồn và phát triển sinh kế vẫn còn thiếu tính đồng bộ và bền vững. Nhiều chương trình hỗ trợ sinh kế mới dừng ở quy mô nhỏ, thiếu liên kết chuỗi giá trị và chưa thật sự dựa vào lợi thế sinh thái-văn hóa của từng vùng…
Để bảo tồn rừng và sinh kế cộng đồng tại vùng đệm các vườn quốc gia, theo ông Hoàng Văn Hồng: “Thời gian tới, các địa phương cần hoàn thiện khung chính sách về đồng quản lý, chia sẻ lợi ích và khuyến khích đầu tư vào sinh kế xanh, bảo tồn thiên nhiên và kinh tế tuần hoàn trong vùng đệm. Xây dựng và nhân rộng mô hình sinh kế dựa vào hệ sinh thái, trong đó cộng đồng là chủ thể quản lý và hưởng lợi từ rừng, hướng đến chuỗi giá trị bền vững cho các sản phẩm đặc hữu như: Dược liệu, du lịch sinh thái, sản phẩm OCOP gắn với rừng”.
Mặt khác cần tăng cường vai trò của khoa học và hợp tác liên ngành, đặc biệt là nghiên cứu-chuyển giao công nghệ sinh thái, mô hình tín chỉ carbon rừng và hệ thống giám sát sinh kế-môi trường; phát triển mạng lưới hợp tác giữa các vườn quốc gia, doanh nghiệp và tổ chức xã hội, nhằm kết nối thị trường, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm vùng đệm, đồng thời huy động nguồn lực tài chính tư nhân cho bảo tồn.
Đẩy mạnh giáo dục, truyền thông và nâng cao năng lực cộng đồng, để người dân thực sự trở thành “người bảo vệ rừng” và là đối tác của cơ quan quản lý trong bảo tồn lâu dài…











