Các tỉnh Tây Nguyên mở rộng mô hình canh tác càphê thông minh
Kết quả khảo sát ở nhiều điểm trình diễn mô hình canh tác càphê thông minh cho thấy tỷ lệ rụng quả giảm 7- 15%, năng suất tăng 9-16% so với vườn đối chứng, trong khi chi phí sản xuất không tăng.

Diện tích canh tác càphê thông minh tại Gia Lai cho năng suất, chất lượng cao. (Ảnh: Hồng Điệp/TTXVN)
Mô hình canh tác càphê thông minh đang được triển khai tại nhiều tỉnh Tây Nguyên nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng thích ứng của cây cà phê trước biến đổi khí hậu.
Đây là chương trình do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên phối hợp với các địa phương thực hiện, bước đầu ghi nhận nhiều kết quả tích cực ở Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng và Quảng Ngãi.
Theo Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, mô hình tập trung cải thiện nền đất bằng phân hữu cơ kết hợp bón theo độ phì nhiêu, đồng thời áp dụng quy trình tưới tiết kiệm và phòng trừ sâu bệnh theo ngưỡng gây hại.
Chế phẩm sinh học BioSpring được bổ sung nhằm tăng khả năng giữ dinh dưỡng, giảm rụng quả và nâng cao chất lượng hạt.
Kết quả khảo sát tại nhiều điểm trình diễn cho thấy tỷ lệ rụng quả giảm từ 7- 15%, năng suất tăng từ 9-16% so với vườn đối chứng, trong khi chi phí sản xuất không tăng.
Tại Gia Lai, gia đình ông Lương Văn Sức ở thôn 3, xã Ia Phí là một trong những hộ dân trực tiếp tham gia mô hình. Trước đây, vườn càphê của gia đình ông phụ thuộc nhiều vào phân hóa học, đất dễ thoái hóa khiến cây giảm sức sinh trưởng.

Vườn càphê áp dụng mô hình canh tác càphê thông minh tại Gia Lai cho hiệu quả khả quan, tăng năng suất, chi phí đầu tư giảm. (Ảnh: Hồng Điệp/TTXVN)
Chuyển sang quy trình canh tác thông minh, vườn càphê của gia đình ông đã thay đổi rõ rệt, từ tán lá, bộ rễ đến tỷ lệ quả đậu và đồng đều khi chín.
Ông Sức chia sẻ việc làm theo mô hình càphê thông minh giúp giảm bớt công chăm sóc, giảm chi phí, mà hiệu quả kinh tế cho lợi nhuận hơn là làm càphê truyền thống. Không chỉ dừng lại ở hiệu quả kinh tế, ông Sức cho biết mô hình còn giúp ông nắm rõ tình trạng từng cây càphê.
“Trước đây, tôi thường phải đi kiểm tra vườn nhiều lần trong ngày, giờ có hệ thống hướng dẫn bón và tưới theo hướng dẫn khoa học, vườn khỏe hơn, ít sâu bệnh hơn. Nhờ đó, tôi tiết kiệm thời gian, có thể tập trung vào việc trồng xen cây ăn quả và chuẩn bị chế phẩm hữu cơ,” ông Sức cho biết thêm.
Những kết quả này cho thấy sự dịch chuyển trong tư duy canh tác của nông dân Tây Nguyên, từ sản xuất dựa trên kinh nghiệm sang tuân thủ quy trình dựa trên khoa học đất, dinh dưỡng và kiểm soát tài nguyên nước.
Việc bón phân theo nhu cầu thực tế thay vì bón theo thói quen giúp giảm chi phí đầu vào, trong khi tưới nước tiết kiệm phù hợp điều kiện khô hạn của khu vực.
Đánh giá mô hình trên diện rộng, Tiến sỹ Trương Hồng, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên cho rằng hiệu quả của mô hình được thể hiện rõ qua từng vụ sản xuất. Ông Hồng cho biết, việc áp dụng bộ quy trình mới đã giúp nông dân giảm chi phí, tăng năng suất và nâng cao chất lượng hạt càphê.
Tiến sỹ Trương Hồng nhận định mô hình tạo ra sự thay đổi trong thói quen canh tác, giúp người dân tiếp cận các giải pháp bền vững hơn, đặc biệt là khi kết hợp trồng xen cây có giá trị như sầu riêng, hồ tiêu sẽ cải thiện rõ rệt thu nhập của nông hộ.
Ngoài kỹ thuật chăm sóc, mô hình còn đưa vào biện pháp phòng trừ sâu bệnh theo ngưỡng, hạn chế sử dụng thuốc hóa học, góp phần bảo vệ môi trường đất và nước.
Hệ sinh thái đất được cải thiện giúp cây càphê phát triển khỏe hơn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất bền vững trong dài hạn. Ông Sức chia sẻ thêm về thay đổi trong thói quen: “Giờ tôi ghi nhật ký vườn từng tuần, theo dõi lượng phân bón, tình trạng đất và cây, từ đó biết được cây nào cần chăm sóc kỹ hơn. Trước kia, mọi thứ dựa vào cảm giác, vườn dễ mất cân đối, bây giờ đồng đều hơn nhiều.”
Theo Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, nhiều địa phương trong vùng đề nghị mở rộng mô hình trên quy mô lớn hơn nhằm tạo sự đồng bộ trong sản xuất.

Thu hoạch càphê tại Gia Lai. (Ảnh: Hồng Điệp/TTXVN)
Tiến sỹ Phan Việt Hà, Phó Viện trưởng phụ trách Viện, nhấn mạnh việc chuẩn hóa quy trình là yêu cầu cấp thiết để chuyển giao kỹ thuật rộng rãi hơn cho nông dân. Ông cho biết cần đưa mô hình thành chương trình chính thức để nông dân được tiếp cận hệ thống kỹ thuật mới nhất, qua đó xây dựng nền nông nghiệp khỏe mạnh, hiện đại và bền vững.
Thời gian tới, các tỉnh Tây Nguyên dự kiến ứng dụng thêm công nghệ số trong giám sát sản xuất, như hệ thống cảm biến độ ẩm, phần mềm theo dõi dinh dưỡng và nhật ký điện tử, tạo điều kiện truy xuất nguồn gốc phục vụ thị trường xuất khẩu.
Sự kết hợp giữa kỹ thuật sinh học, nông học và công nghệ thông tin được kỳ vọng sẽ giúp ngành càphê Tây Nguyên nâng cao giá trị, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường.
Mô hình canh tác càphê thông minh, với hiệu quả kinh tế rõ rệt và sự thay đổi tích cực trong tư duy sản xuất, được xem là hướng đi phù hợp giúp Tây Nguyên duy trì vị trí vùng sản xuất càphê trọng điểm của cả nước, đồng thời phát triển theo định hướng nông nghiệp xanh và bền vững./.












