Cách triều Nguyễn tôn vinh những thầy thuốc giỏi
Dưới triều Nguyễn, miếu Tiên Y là nơi thắp sáng y đạo, nơi thờ thánh y (thầy thuốc giỏi) và tiên y (thầy thuốc các đời trước) cả đời cống hiến cho y thuật.
Châu bản (văn bản có bút phê bằng mực của vua Nguyễn) và chính sử Đại Nam thực lục cho biết miếu Tiên y xây dựng từ năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) trên mảnh đất ở xã An Ninh Thượng, An Ninh Hạ, huyện Hương Trà và hàng năm tế chính hai lần vào mùa xuân và mùa đông.
Lễ miếu Tiên y

Miếu Tiên Y. Nguồn: khamphahue.
Bản tấu ngày 08 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) của Nội các nói rõ: “Miếu Tiên y vào năm Minh Mệnh thứ 6 vâng ân chuẩn cấp cho căn nhà công, một khoảnh đất ở xã An Ninh và 500 quan tiền để đủ xây dựng”.
Sau khi miếu xây xong, vua Minh Mệnh cho đặt “định lệ lễ miếu Tiên y (hàng năm, xuân thu 2 kỳ tế, cấp tiền lễ phẩm 80 quan)”. “Hàng năm tế hai lần vào mùa đông và mùa xuân. Mỗi lễ cấp 40 quan tiền do Viện Thái y thực hiện. Duy đồ thờ và phu miếu do viện đó phải tự giải quyết”.
Ngoài hai lễ tế vào mùa xuân, mùa thu hàng năm thì khi vua, thái hậu, hoàng hậu có bệnh được điều trị khỏi hay khi có việc quan trọng liên quan tới y đạo vua thường phái người đến miếu Tiên y lập đàn tế.
Tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) thời tiết mưa gió liên miên, vua lo ảnh hưởng tới nhà nông khiến tổn hao khí lực nên bị nhiễm cảm. Sau khi uống thuốc được khỏe mạnh vua Minh Mệnh liền sai chọn ngày tốt, sắm lễ và phái đường quan Bộ Lễ tới miếu Tiên y lễ tạ.
Lại năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), Thái hoàng thái hậu bị bệnh, Quản viện Thái y viện Vũ Quýnh, Viện sứ Trần Viết Cát hết lòng chăm lo thuốc thang nên đều được ban thưởng, “lại truyền cho Bộ Lễ chuẩn bị đầy đủ đồ lễ tới miếu Tiên y ban 1 đàn tế”.
Đại Nam thực lục chép việc này như sau: “Trước đây, Thái hoàng thái hậu bị bệnh, không được vui, vua ngày đêm hầu thuốc thang; Viện Thái y vì dâng thuốc có chút công hiệu, nên Quản viện là Vũ Quýnh, Viện sứ là Trần Viết Cát đều được thưởng thêm 1 cấp chua ở dưới tên, 3 cuốn sa, 10 lạng bạc; Y chính Hoàng Đức Hạ được 1 đồng kim tiền, 30 lạng bạc, 10 tấm đoạn, 2 cuốn sô sa. Sai Bộ Lễ đến tế ở miếu Tiên y”.

Thắp hương tại miếu Tiên Y. Nguồn: huengaynay.
Nơi thắp sáng y đạo
Sau khi lên ngôi vua Tự Đức thấy miếu Tiên y dựng ở nơi đất thấp trũng, quy thức nhỏ hẹp nên năm 1850 đã cho dời đến phường Thường Dụ (Nguyên trước miếu dựng ở bên tả chùa Thiên Mụ)” .
Theo châu bản, vua ban dụ rằng: “Trẫm nghe nói: y đạo dù nhỏ cũng là thuật nhân từ, là quan trọng nhất trong cửu lưu. Vậy nên đế vương đời xưa thử thuốc, định đơn để giúp đời sống, thực có công với thiên hạ vạn đời” . Chính bởi coi trọng y đạo nên vua Tự Đức mong muốn dựng lại miếu Tiên y rộng lớn hơn ở nơi thoáng đãng để tri ân các vị tiên y, thánh y và danh y; cũng là để thắp sáng y đạo.
Bên cạnh đó, Châu bản cũng nói rõ lý do vua Tự Đức cho chuyển miếu Tiên y từ xã An Ninh Thượng, An Ninh Hạ huyện Hương Trà đến phường Thường Dụ: “Nguyên năm trước có xây dựng miếu Tiên y ở bên tả chùa Thiên mụ, đó là vùng đất thấp trũng, quy thức lại nhỏ hẹp mà các đồ thờ trong đó còn sơ lược chưa đầy đủ, cần phải tu bổ sửa sang, định rõ điển nghi”.
Vua liền giao Bộ Công “xem xét chọn nơi đất cao rộng, dời chuyển xây dựng lại miếu rộng rãi thêm cho được thích hợp và đợi đến kỳ đầu xuân sang năm lính các ban tập hợp đầy đủ sẽ tiến hành xây dựng ngay”. Riêng “các đồ lễ thờ phụng thánh y, tiên y, bài vị thờ chính, phối thờ cùng các nghi lễ tế hàng năm truyền giao cho Bộ Lễ tra xét rõ thư tịch, nghị bàn cho thỏa đáng chờ chỉ thi hành”.
Sau khi Bộ Công xem xét, lựa chọn nơi đất tốt liền dâng tấu trình bày: “Bộ thần tuân vâng bàn chọn nơi đất thoáng đãng. Chỉ có một nơi đất thoáng ở phường Thường Dụ thuộc bên trái trong kinh thành. Địa thế nơi ấy bằng phẳng, thoáng mát lại đẹp. Vâng bàn ngôi miếu đó xin nên chuyển về xây dựng ở đấy”.
Bản tấu của Bộ Công được vua Tự Đức phê chuẩn đồng ý cho dựng miếu Tiên Y ở phường Thường Dụ. Vua lại sai Bộ Lễ “xét kỹ điển lễ rõ ràng và sự tích những vị thánh y, danh y ngày xưa, tiến lên để coi”. Sau đó vua Tự Đức cho thờ các vị Thái Hạo Phục Hy thị, Viêm Đế Thần Nông thị, Hoàng Đế Hiên Viên thị; lại phối thờ 4 vị Câu Mang thị, Phong Hậu thị, Chúc hỏa chính, Lực Mục thị và cho tòng tự 30 vị danh y. Đồng thời quy định: “Hàng năm lấy ngày giáp tháng trọng xuân (tháng 2 âm lịch) trọng đông (tháng 11 âm lịch) sai quan tam phẩm đến tế. (Trước do ngự y viện sứ đến tế)”.
Dưới triều Nguyễn, miếu Tiên y là một trong những miếu thờ quan trọng, lễ tế được tổ chức long trọng thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn và tôn vinh các bậc tiên y, thánh y đã làm rạng rỡ y đức, y thuật. Vì vậy, miếu thường được quan tâm và cho tu sửa mỗi khi bị hư hại. Tuy nhiên, cùng những thăng trầm của lịch sử, miếu Tiên y đã có thời kì bị bỏ hoang. Năm 1991, các vị bô lão địa phương đã tự nguyện đóng góp dựng lại ngôi miếu.
Năm 2002, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đã cấp kinh phí để trùng tu, tôn tạo ngôi miếu. Đặc biệt, cuối năm 2015 miếu đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Những năm gần đây, Hội Đông y Thừa Thiên - Huế tiếp tục tôn tạo và lập thêm bài vị của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Tuệ Tĩnh thiền sư đưa vào thờ tự; đồng thời khôi phục lại nghi thức tế tự. Mùa xuân hàng năm, hội đều tổ chức lễ tế các vị danh y và tưởng niệm ngày mất của Hải Thượng Lãn Ông tại miếu này.
Nguồn Znews: https://znews.vn/cach-trieu-nguyen-ton-vinh-nhung-thay-thuoc-gioi-post1532570.html