Cần có các hành động cấp bách bảo tồn quần thể các loài hoang dã
Kết quả của khảo sát quần thể các loài hoang dã bằng máy bẫy ảnh quy mô và toàn diện nhất từng được thực hiện tại Việt Nam mang đến niềm hy vọng nhưng cũng gióng lên hồi chuông cảnh báo cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học của đất nước.

Loài mang lớn (Muntiacus vuquangensis) được ghi nhận từ 5 khu vực đặt bẫy ảnh. Ảnh: WWF-Việt Nam.
Khảo sát, được thực hiện tại 21 địa điểm trên toàn quốc, cho thấy ở 16 khu vực, mức độ phong phú của các loài thú và chim đang có chiều hướng gia tăng – dấu hiệu tích cực cho sự phục hồi của hệ sinh thái. Tuy nhiên, các mối đe dọa vẫn tồn tại dai dẳng, đặc biệt là nạn đặt bẫy, khiến những thành quả này trở nên mong manh.
Kết quả khảo sát quan trọng này được công bố tại Hội nghị Ứng dụng công nghệ trong bảo tồn (Applied Conservation Technology Congress) diễn ra mới đây tại Hà Nội, với sự tham dự của 450 đại biểu trong và ngoài nước.
Ghi nhận quan trong về loài mang lớn, gấu chó... trong tự nhiên
Rừng Việt Nam nằm trong số những khu vực có đa dạng sinh học phong phú nhất thế giới, nhưng trong những thập kỷ gần đây đã chịu nhiều tác động tiêu cực từ tình trạng mất và suy thoái rừng, đặc biệt là nạn săn bắt và đặt bẫy trái phép.
Dự án Bảo tồn Đa dạng sinh học do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ nhằm mục đích đảm bảo những dải rừng nguyên vẹn và quần thể động vật hoang dã còn sót lại trong các khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ tại 7 tỉnh được ưu tiên lựa chọn tại Việt Nam.
Để hiểu rõ hơn về hệ sinh thái rừng và xu hướng quần thể động vật hoang dã, trong 4 năm qua, các khảo sát bằng máy bẫy ảnh đã được thực hiện tại 21 Khu rừng đặc dụng và phòng hộ, thu thập dữ liệu từ hơn 350.000 ngày bẫy ảnh.
Khảo sát do WWF-Việt Nam và WWF-Hoa Kỳ phối hợp với các Ban quản lý rừng địa phương và Viện nghiên cứu Động vật hoang dã Leibniz thực hiện.
Nghiên cứ nhằm theo dõi những thay đổi quan trọng trong quần thể các loài thú và chim sống dưới mặt đất, đồng thời đánh giá hiệu quả các nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học đang được triển khai.

Bò tót được ghi nhận qua bẫy ảnh.
Tổng cộng, USAID BC đã tiến hành khảo sát bằng bẫy ảnh hệ thống giai đoạn cơ sở và giai đoạn cuối tại 21 khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, với tổng cộng 349.662 ngày đêm.
Nỗ lực này đã ghi nhận hàng triệu ảnh và hơn 120.000 phát hiện độc lập của động vật. Kết quả ghi nhận ít nhất 49 loài thú có kích thước trung bình và lớn sinh sống trên mặt đất và 11 loài trong nhóm chim trĩ, trong đó có 9 loài đặc hữu của Trung Trường Sơn và 22 loài bị đe dọa toàn cầu. Đáng chú ý nhất là các bằng chứng ghi nhận mang lớn, gấu ngựa và cầy giông đốm lớn - đây là những ghi nhận hiếm hoi về các loài này trong hai thập kỷ qua.
Trong số những phát hiện quan trọng nhất là việc ghi nhận về loài mang lớn (Muntiacus vuquangensis) từ 5 khu vực nghiên cứu, loài gấu chó (Helarctos malayanus) từ 3 khu vực và cầy giông sọc (Viverra megaspila) từ 2 khu vực.
Theo đó, đây là một trong số ít ghi nhận được xác nhận về các loài này ở Việt Nam trong 20 năm qua. Đặc biệt, tỷ lệ xuất hiện của tê tê đã tăng tại nhiều khu vực, nhất là tại Vườn Quốc gia Cát Tiên. Nhìn chung, mức độ phong phú loài tăng đáng kể tại 16 địa điểm, và không có nơi nào ghi nhận sự suy giảm.

Voi châu Á qua bẫy ảnh. (WWF-Việt Nam)
Mặc dù dự án ghi nhận một số loài quý hiếm và đặc hữu cũng như độ giàu loài cao ở một số khu vực, kết quả cũng cho thấy rằng quần thể động vật hoang dã đã bị suy giảm trên khắp các khu vực dự án do hoạt động bẫy dây phanh tràn lan trong quá khứ và hiện tại.
Sự vắng mặt của các loài thú ăn thịt và thú ăn cỏ cỡ trung bình hoặc lớn (như hổ, báo hoa mai, báo gấm, mèo rừng vàng châu Á, và sao la) cho thấy hậu quả của nạn đặt bẫy kéo dài trong nhiều thập kỷ.
Hầu hết các loài được ghi nhận là những loài có khả năng phục hồi trước các áp lực săn bắt cao, và các dữ liệu cho thấy chúng chủ yếu xuất hiện ở những khu vực xa xôi, khó tiếp cận.
Khảo sát năm 2024 tiếp nối kết quả khảo sát đầu tiên cũng do dự án thực hiện năm 2019-2022, cho phép so sánh và theo dõi xu hướng đa dạng sinh học của 21 khu vực theo thời gian.
Kết quả khảo sát đóng góp trực tiếp cho các chỉ số giám sát đa dạng sinh học quốc gia và quốc tế, đồng thời hỗ trợ các khu bảo tồn xác định vùng ưu tiên từ đó phân bổ nguồn lực bảo tồn hiệu quả hơn.

Loài cầy giông đốm lớn qua bẫy ảnh. (WWF-Việt Nam)
Cân nhắc tái thả các loài hoang dã về các sinh cảnh trước đây của chúng
Ông Nguyễn Quang Hòa Anh, Chuyên gia Đa dạng sinh học, WWF-Việt Nam cho biết: “Rừng Việt Nam vẫn là nhà của nhiều loài động vật có giá trị toàn cầu. Những tín hiệu phục hồi đáng khích lệ cho thấy thiên nhiên có thể tái sinh khi có cơ hội".
Những tín hiệu phục hồi đáng khích lệ cho thấy thiên nhiên có thể tái sinh khi có cơ hội.
Ông Nguyễn Quang Hòa Anh, Chuyên gia Đa dạng sinh học, WWF-Việt Nam
"Tuy nhiên, sự phục hồi bền vững chỉ có thể đạt được nếu có sự hợp tác chặt chẽ và lâu dài giữa chính quyền các cấp, cộng đồng và các đối tác bảo tồn nhằm chấm dứt các mối đe dọa đối với các loài hoang dã, đặc biệt là nạn đặt bẫy tràn lan”, ông Nguyễn Quang Hòa Anh chia sẻ thêm.
Báo cáo khuyến nghị lặp lại việc đặt bẫy ảnh một cách có hệ thống sau mỗi 3-5 năm để đánh giá những thay đổi tiềm ẩn trong quần thể các quần xã chim và thú sống trên mặt đất.

Cầy vằn được ghi nhận qua bẩy ảnh. (WWF-Việt Nam)
Hơn nữa, hoạt động giám sát đa dạng sinh học có hệ thống ở quy mô cảnh quan được thực hiện trong khuôn khổ USAID BC có khả năng được mở rộng sang các khu bảo vệ khác.
Mở rộng phương pháp giám sát có hệ thống này sang các khu bảo vệ khác sẽ cho phép Việt Nam thực hiện các cam kết quốc gia và quốc tế (công ước CBD) về đo lường biến động đa dạng sinh học; về các hướng dẫn trên cơ sở khoa học cho kế hoạch hành động bảo tồn các loài động vật rừng nguy cấp, quý hiếm.
Trong tương lai, việc khảo sát cần một hoặc nhiều viện nghiên cứu của nhà nước phụ trách, do mức độ phức tạp trong triển khai khảo sát và phân tích dữ liệu.
Đặc biệt, báo cáo kêu gọi các tổ chức bảo tồn, chính phủ cân nhắc các chương trình tái thả các loài hoang dã về các sinh cảnh trước đây của chúng, hoặc tại các sinh cảnh có số lượng quần thể quá ít, giúp duy trì và phục hồi các hệ sinh thái rừng Việt Nam.











