Cần có cơ chế linh hoạt cho phép chuyên gia nước ngoài hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh

Theo lãnh đạo một số trường đại học, cần có thêm cơ chế linh hoạt, cho phép chuyên gia quốc tế có thể hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh.

Tại khoản 3, Điều 5, Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT ban hành quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ nêu rõ: Mỗi nghiên cứu sinh có 1 hoặc 2 người hướng dẫn, trong đó có 1 người là cán bộ cơ hữu của cơ sở đào tạo hoặc có hợp đồng giảng dạy, nghiên cứu khoa học với cơ sở đào tạo theo quy định của pháp luật; làm việc theo chế độ trọn thời gian tại cơ sở đào tạo với thời hạn của hợp đồng phù hợp với kế hoạch học tập, nghiên cứu toàn khóa của nghiên cứu sinh.

Theo đánh giá, quy định này đã góp phần tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho công tác hướng dẫn nghiên cứu sinh của các trường, đảm bảo chất lượng đào tạo tiến sĩ và trách nhiệm của cơ sở đào tạo.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, theo lãnh đạo một số cơ sở giáo dục, quy định yêu cầu ít nhất một trong hai người hướng dẫn nghiên cứu sinh phải công tác tại đơn vị đào tạo dẫn đến tình trạng dù họ là giáo sư đầu ngành hay nhà khoa học có uy tín quốc tế vẫn không thể hướng dẫn độc lập nếu không làm việc tại cơ sở đào tạo.

Cần cơ chế linh hoạt để thu hút chuyên gia quốc tế tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Mai Thanh Phong - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, theo Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT, mỗi nghiên cứu sinh có 1 hoặc 2 người hướng dẫn, trong đó có 1 người là cán bộ cơ hữu của cơ sở đào tạo hoặc có hợp đồng giảng dạy, nghiên cứu khoa học với cơ sở đào tạo theo quy định của pháp luật.

Quy định này phù hợp với thực tế của các trường đại học, bởi khi một cơ sở đào tạo đủ điều kiện đào tạo trình độ tiến sĩ thì việc đội ngũ giảng viên từ giáo sư, phó giáo sư đến tiến sĩ tại cơ sở đó cần đáp ứng năng lực hướng dẫn nghiên cứu sinh.

Ngoài ra, trong trường hợp chuyên gia có năng lực, uy tín học thuật cao ngoài cơ sở giáo dục sẵn sàng hợp tác, thì việc họ cùng hướng dẫn nghiên cứu sinh với giảng viên của trường là điều nên khuyến khích nhằm tận dụng thế mạnh chuyên môn của chuyên gia và mở rộng môi trường học thuật cho nghiên cứu sinh.

Tuy nhiên, với chuyên gia nước ngoài đầu ngành, có uy tín học thuật quốc tế khi tham gia đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh nếu không được đảm nhiệm vai trò hướng dẫn chính hay hướng dẫn độc lập thì chưa phản ánh đúng bản chất đóng góp và có phần thiếu phù hợp với năng lực của đối tượng này.

 Giáo sư, Tiến sĩ Mai Thanh Phong - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Giáo sư, Tiến sĩ Mai Thanh Phong - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Thầy Phong nhấn mạnh: “Vướng mắc chủ yếu phát sinh trong những trường hợp chuyên gia nước ngoài có năng lực nghiên cứu và trình độ chuyên môn vượt trội so với đội ngũ giảng viên tại cơ sở giáo dục đại học trong nước. Khi đó, người hướng dẫn chính tại cơ sở đào tạo trong nước có thể chưa thật sự tương xứng về năng lực học thuật, dẫn đến phần nào thiệt thòi cho nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện luận án.

Do đó, nếu cho phép chuyên gia nước ngoài có uy tín học thuật quốc tế được hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh là một đề xuất hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Việt Nam đang rất cần thu hút nguồn lực chất lượng cao từ quốc tế, và nếu có những chuyên gia sẵn sàng tham gia hướng dẫn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các cơ sở đào tạo trong nước nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ.

Chúng ta sẽ tiếp thu được tri thức và kinh nghiệm của các chuyên gia uy tín quốc tế mà không bắt buộc họ phải làm việc toàn thời gian hay trở thành giảng viên cơ hữu tại Việt Nam - điều vốn rất khó thực hiện. Nếu được triển khai, cơ chế này sẽ mang lại sự linh hoạt, đồng thời mở ra cơ hội hợp tác quốc tế hiệu quả hơn trong đào tạo tiến sĩ trong nước.

Bên cạnh đó, trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học là rất quan trọng trong việc quản lý chất lượng đào tạo nghiên cứu sinh và tạo điều kiện làm việc phù hợp cho người hướng dẫn, nhằm đảm bảo mọi quy trình giảng dạy, hướng dẫn và kiểm định học thuật được thực hiện nghiêm túc, đồng thời bảo vệ quyền lợi và phát huy tối đa năng lực của cả nghiên cứu sinh lẫn chuyên gia hướng dẫn”.

Cùng bàn về vấn đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, hiện nay, việc hướng dẫn nghiên cứu sinh được quy định tại Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT vẫn phù hợp với cơ sở giáo dục đào tạo tiến sĩ. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một số trường hợp khó thu hút các chuyên gia đầu ngành không công tác tại cơ sở đào tạo tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh. Điều này cũng phản ánh vị thế của từng đơn vị.

Nếu một cơ sở giáo dục muốn nâng cao uy tín và trở thành đơn vị mạnh trong công tác đào tạo nghiên cứu sinh, có hai hướng giải pháp có thể triển khai. Giải pháp thứ nhất là cho phép chuyên gia nước ngoài có uy tín học thuật quốc tế được hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh cho từng đề tài hoặc giai đoạn cụ thể, không bắt buộc phải thông qua cơ chế đồng hướng dẫn. Đây là giải pháp mang tính ngắn hạn, tận dụng nguồn lực bên ngoài để hỗ trợ trong khi điều kiện nội bộ của cơ sở còn hạn chế.

Giải pháp thứ hai là tuyển dụng trực tiếp các chuyên gia này về cơ sở đào tạo hoặc nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ hiện có thông qua đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn. Đây là hướng đi lâu dài, nhằm xây dựng đội ngũ giảng viên vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đào tạo tiến sĩ và nâng cao uy tín học thuật của đơn vị.

Thời gian qua, nhiều trường đại học đã tổ chức các hội thảo bàn về việc làm thế nào để những giảng viên, nhà khoa học đang công tác tại các đơn vị khác có thể tham gia vào hệ sinh thái giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh trong trường đại học. Bên cạnh đó, gần đây, Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo cũng đã đưa vào khái niệm “giảng viên đồng cơ hữu”, được xem là một trong những giải pháp nhằm mở rộng sự tham gia của đội ngũ chuyên gia bên ngoài.

Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp mang tính ngắn hạn. Về lâu dài, các cơ sở đào tạo cần tập trung xây dựng văn hóa học thuật, phát triển đội ngũ cán bộ của đơn vị và củng cố nền tảng khoa học công nghệ nội tại. Chỉ khi đó, chất lượng đào tạo nghiên cứu sinh mới thực sự được nâng cao và bền vững.

 Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: website nhà trường

Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: website nhà trường

Thầy Trình khẳng định: “Nếu một cơ sở đào tạo muốn trở thành đơn vị mạnh về đào tạo và nâng cao năng lực hướng dẫn nghiên cứu sinh, trước hết phải xây dựng được văn hóa học thuật bền vững và gắn chất lượng đào tạo tiến sĩ với chất lượng hoạt động chung của nhà trường. Hoạt động của nhà trường ở đây được thể hiện qua nhiều khía cạnh: trước hết là công tác đào tạo nghiên cứu sinh; tiếp đến là xây dựng văn hóa tổ chức, văn hóa nghiên cứu khoa học nội bộ. Đây là những yếu tố cốt lõi mà không thể chỉ dựa vào sự tham gia của chuyên gia bên ngoài.

Bên cạnh đó, khi mời giảng viên bên ngoài tham gia hướng dẫn, họ thường chỉ đóng góp ở khía cạnh chia sẻ kinh nghiệm, thời gian dành cho công tác hướng dẫn nghiên cứu sinh thường không nhiều”.

Công bố nghiên cứu quốc tế, năng lực giảng dạy là yếu tố quan trọng để đánh giá chuyên gia

Bên cạnh việc mở rộng cơ chế cho người hướng dẫn, việc thiết lập tiêu chuẩn học thuật rõ ràng nhưng linh hoạt đối với người hướng dẫn nghiên cứu sinh cũng là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ.

Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, khi trường đại học trong nước muốn thu hút chuyên gia quốc tế tham gia đào tạo và hướng dẫn nghiên cứu sinh độc lập, việc đặt ra tiêu chuẩn tối thiểu về năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế là cần thiết. Đây không phải vấn đề mới hay phức tạp, bởi ở hầu hết các quốc gia, tiêu chuẩn học thuật của đội ngũ giảng viên và người hướng dẫn nghiên cứu sinh đã được quy định rất rõ ràng.

Năng lực và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học của chuyên gia được thể hiện qua các sản phẩm học thuật, bao gồm công trình công bố quốc tế, các dự án nghiên cứu đã thực hiện. Ngoài ra, họ còn được đánh giá về kinh nghiệm giảng dạy và khả năng hướng dẫn nghiên cứu sinh.

“Nếu muốn thu hút các chuyên gia quốc tế tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh độc lập, chắc chắn tiêu chuẩn dành cho họ cần phải cao hơn so với chuyên gia trong nước, để tương xứng với uy tín và năng lực học thuật quốc tế của họ”, thầy Phong nhận định.

 Hoạt động nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NTCC

Hoạt động nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NTCC

Trong khi đó, theo Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, việc đặt ra quy định tiêu chuẩn tối thiểu về số lượng công bố quốc tế đối với chuyên gia nước ngoài được mời hướng dẫn nghiên cứu sinh cần được xem xét linh hoạt, tùy thuộc vào từng cơ sở đào tạo và đặc thù chuyên ngành.

Hướng dẫn nghiên cứu sinh không chỉ dựa vào số lượng bài báo, mà quan trọng hơn là năng lực dẫn dắt, khả năng truyền đạt tư duy nghiên cứu và phát triển kỹ năng học thuật cho người học. Song, cũng cần có một ngưỡng tối thiểu về năng lực học thuật để đảm bảo chất lượng người hướng dẫn, tránh tình trạng hình thức hoặc kém hiệu quả.

“Tôi cho rằng cần có một khung quy định tối thiểu về tiêu chuẩn chuyên gia ngoài đơn vị đào tạo hướng dẫn nghiên cứu sinh. Bên cạnh đó, cần có những tiêu chí linh hoạt để không làm hạn chế khả năng của các cơ sở đào tạo trong việc thu hút nhân tài”, thầy Trình nhấn mạnh.

Theo thầy Trình, để nâng cao chất lượng đào tạo nghiên cứu sinh cần có những cơ chế và giải pháp mang tính tổng thể. Trước hết, phải tạo dựng được môi trường nghiên cứu lành mạnh, cởi mở và có tính kết nối cao, nơi các nghiên cứu sinh sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ có cơ hội phát huy năng lực, đóng góp vào hoạt động khoa học và giảng dạy.

Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp và các tổ chức khoa học công nghệ sử dụng và đánh giá cao năng lực của nghiên cứu sinh, cơ sở đào tạo sẽ có thêm động lực để nâng chuẩn đầu ra, cả về kiến thức, kỹ năng lẫn khả năng kết nối giữa nghiên cứu và thực tiễn. Điều này không chỉ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ, mà còn giúp hình thành hệ sinh thái nghiên cứu gắn kết giữa nhà trường, doanh nghiệp và xã hội, tạo nền tảng bền vững cho khoa học Việt Nam phát triển.

Khác với bậc đại học, chương trình đào tạo nghiên cứu sinh không quá cứng nhắc, mà đòi hỏi người học phải chủ động tự nghiên cứu, tự học, đồng thời tích cực tham gia các hoạt động học thuật cùng giảng viên trong trường.

Quan trọng hơn cả, nghiên cứu sinh phải thực sự gắn bó với công việc nghiên cứu khoa học, xác định được vấn đề mới của thế giới hoặc có giá trị trong lĩnh vực chuyên môn và chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành các công bố khoa học quốc tế.

Cùng với đó, xây dựng văn hóa khoa học và tự chủ học thuật là yếu tố cốt lõi giúp hệ thống đào tạo tiến sĩ phát triển đúng hướng. Khi nguồn cầu về nhân lực nghiên cứu được mở rộng, tự khắc nguồn cung chất lượng cao cũng sẽ hình thành, góp phần tạo nên hệ sinh thái nghiên cứu – đào tạo – ứng dụng hiệu quả.

Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ thêm, tại nhà trường, việc giảng viên hướng dẫn nghiên cứu sinh độc lập là phổ biến. Những năm gần đây, số lượng nghiên cứu sinh của trường không nhiều, trung bình mỗi năm chỉ tuyển khoảng 25-30 người. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu sinh sau khi tốt nghiệp đều có công bố quốc tế, thậm chí nhiều người có từ 2-3 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí uy tín.

Đại học Quốc gia Hà Nội cũng có chính sách khuyến khích chất lượng nghiên cứu sinh, nếu nghiên cứu sinh có 3 bài báo khoa học đăng trên tạp chí quốc tế có chỉ số Impact Factor (IF) trên 3, nghiên cứu sinh sẽ được xem xét miễn phản biện kín.

Thầy Trình cho hay: “Thời gian vừa qua, nghiên cứu sinh của trường không chỉ tham gia vào hoạt động nghiên cứu mà còn đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng văn hóa học thuật của nhà trường. Họ thường xuyên tương tác, hỗ trợ học viên và sinh viên, đồng thời nhiều đề tài nghiên cứu cũng được gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của doanh nghiệp và lĩnh vực công nghiệp.

Từ năm 2025, toàn bộ học viên cao học và nghiên cứu sinh của Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đều được miễn 100% học phí. Bên cạnh đó, mỗi học viên cao học được hỗ trợ tối thiểu 5 triệu đồng/tháng sinh hoạt phí; nghiên cứu sinh được hỗ trợ ít nhất 7 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, nếu nghiên cứu sinh tham gia các đề tài nghiên cứu cùng giảng viên sẽ được nhận thêm khoản hỗ trợ cao hơn”.

Hồng Mai

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/can-co-co-che-linh-hoat-cho-phep-chuyen-gia-nuoc-ngoai-huong-dan-doc-lap-nghien-cuu-sinh-post255789.gd