Cân đối tỷ trọng, giám sát chặt chẽ vốn đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục
Chiều 02/12, thảo luận tại Hội trường về Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035, các đại biểu Quốc hội đề nghị Chính phủ tính toán lại cơ cấu phân kỳ vốn theo hướng tăng tỷ trọng giai đoạn 2026-2030, bảo đảm đủ nguồn lực để hoàn thành các mục tiêu nền tảng; đồng thời có cơ chế giám sát thực thi, tránh thất thoát, lãng phí nguồn vốn.

Các đại biểu tham dự Phiên thảo luận. Ảnh: VPQH
Dồn 70% vốn sang giai đoạn sau dễ dẫn tới dồn việc, dồn chỉ tiêu
Phát biểu tại Phiên họp, đại biểu Trần Hoàng Ngân (Đoàn TP Hồ Chí Minh) - chỉ ra, trong cấu trúc vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, giai đoạn 2026-2030 chỉ được phân bổ 174.673 tỷ đồng.
Theo đại biểu, đây là một con số quá thấp so với khối lượng việc phải hoàn thành. “Bình quân mỗi năm Chương trình chỉ có khoảng 20.000 tỷ đồng từ ngân sách trung ương, so với nhu cầu và mục tiêu đặt ra thì số tiền này rất khiêm tốn, cần tăng thêm nguồn lực đầu tư cho giáo dục” - đại biểu nói.
Theo đó, đại biểu đề xuất các nhóm nhiệm vụ cần ưu tiên vốn sớm như: Kiên cố hóa trường lớp trước tác động ngày càng khắc nghiệt của biến đổi khí hậu; xây dựng phòng học tiếng Anh, STEM, trung tâm thực hành, thí nghiệm; mở rộng các thiết chế hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp trong trường học; bổ sung cơ sở vật chất đồng bộ cho giáo dục phổ thông.
Đồng tình với ý kiến trên, đại biểu Chu Thị Hồng Thái (Đoàn Lạng Sơn) - cho rằng, việc dồn 70% vốn sang giai đoạn sau là rủi ro lớn, dễ dẫn tới dồn việc, dồn chỉ tiêu.
Theo đại biểu, Dự thảo Nghị quyết nêu hơn 415.000 tỷ đồng (hơn 70% tổng vốn được dành cho giai đoạn 2031-2035), trong khi giai đoạn 2026-2030 chỉ có 30%, điều này sẽ tạo ra sự chệnh lệch rất lớn.

Đại biểu Chu Thị Hồng Thái phát biểu thảo luận. Ảnh: VPQH
Đại biểu phân tích, giai đoạn 2026-2030 được xác định hoàn thành hàng loạt mục tiêu nền tảng như kiên cố hóa phòng học, nhà công vụ giáo viên, đầu tư cho 18 trường cao đẳng, đạt chuẩn 30% cơ sở giáo dục đại học… nhưng nguồn lực phân bổ lại không đủ để tạo chuyển biến rõ rệt.
Việc dồn phần lớn vốn sang giai đoạn sau làm tăng nguy cơ dồn việc, dồn chỉ tiêu khiến tiến độ thực hiện không bám sát yêu cầu nghị quyết của Quốc hội, đặc biệt trong bối cảnh khả năng cân đối ngân sách sau năm 2030 còn nhiều yếu tố khó dự đoán.
Đại biểu Chu Thị Hồng Thái
Bên cạnh đó, việc dồn quá nhiều chỉ tiêu vào 5 năm cuối khiến tiến độ bị nén lại, chất lượng đầu tư khó kiểm soát. Do đó, đại biểu khuyến nghị: “Chính phủ cần tính toán lại cơ cấu phân kỳ vốn theo hướng tăng tỷ trọng giai đoạn 2026-2030, bảo đảm đủ nguồn lực để hoàn thành các mục tiêu nền tảng, nhất là các vùng khó khăn”
Đại biểu cũng đề xuất quy định rõ thứ tự ưu tiên vốn là các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới và các xã đặc biệt khó khăn phải được bố trí vốn trước, để tạo chuyển biến ngay từ giai đoạn đầu.
Phân bổ vốn chưa tương thích với nhu cầu nhân lực thực tế
Đại biểu Nguyễn Thị Lan Anh (Đoàn Lào Cai) nhấn mạnh: Giai đoạn bản lề chiếm 50% mục tiêu nhưng chỉ có 30% vốn là không hợp lý. Sự bất hợp lý không dừng lại ở con số tổng, mà vốn bên trong từng tiểu dự án cũng còn một số điểm chưa hợp lý.
Cụ thể, giáo dục nghề nghiệp được phân bổ thấp (khoảng 60,5% nhu cầu, chứ không phải 60,5% vốn), tức là không đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa; tỷ lệ vốn xã hội hóa mới chỉ đạt 5,23%, nhưng chưa có cơ chế cụ thể để huy động; nhiều địa phương nghèo không có khả năng đối ứng, khiến các dự án trọng điểm dễ bị “đứng lại”.
“Các tỉnh khó khăn nhận bổ sung cân đối ngân sách trung ương gần 100% mà giữ quy định chỉ ưu tiên cho các địa phương nhận từ 60% trở lên sẽ không đảm bảo sự công bằng như mục tiêu Quốc hội đề ra” - đại biểu Lan Anh nêu rõ.

Đại biểu Lê Minh Nam phát biểu thảo luận. Ảnh: VPQH
Cũng băn khoăn về “độ chênh” cơ cấu vốn giữa hai nhóm giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, đại biểu Lê Minh Nam (Đoàn TP Cần Thơ) nêu: Theo số liệu của Dự thảo Nghị quyết, đầu tư cho giáo dục đại học là 277.000 tỷ đồng (47,8% tổng vốn chương trình), trong khi giáo dục nghề nghiệp là 59.000 tỷ đồng (10,3%). Thậm chí trong 5 năm đầu, tỷ lệ còn lệch hơn khi giáo dục đại học được đầu tư 36,8%, trong khi giáo dục nghề nghiệp chỉ được đầu tư 6,5% nguồn lực tài chính.
Như vậy, trong khi mục tiêu đào tạo nhân lực kỹ năng, đáp ứng thị trường lao động, chủ yếu nằm ở hệ thống giáo dục nghề nghiệp nhưng phân bổ vốn lại đi theo hướng ngược lại, dẫn đến hệ quả là nhu cầu nhân lực thực tế và cơ cấu đầu tư không đi cùng nhau.
Dự thảo Nghị quyết cần tính toán lại việc phân bổ nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu nhân lực thực sự. Có thể phân bổ vốn theo đặc thù vùng, tiềm năng phát triển ngành nghề. Giáo dục đại học đóng vai trò nòng cốt trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nhưng không phải nơi nào cũng đầu tư như nhau. Nguồn lực phải đi đúng địa chỉ để tạo giá trị lan tỏa.
Đại biểu Lê Minh Nam
Sự mất cân đối trong cơ cấu vốn còn được đại biểu Thạch Phước Bình (Đoàn Vĩnh Long) chỉ ra với tỷ trọng vốn đầu tư công chiếm đến 83,91% trong giai đoạn 2026-2030 và 90,27% trong giai đoạn 2031-2035, trong khi chi thường xuyên chỉ chiếm tương ứng 10,9% và 5,5%.
Đại biểu phân tích: Cơ cấu này chưa phù hợp với định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. Bởi, chất lượng giáo dục về bản chất phụ thuộc rất lớn vào đầu tư cho con người, đặc biệt là kinh phí dành cho đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Thực tiễn cũng cho thấy tỷ lệ giải ngân chi thường xuyên kinh phí sự nghiệp giáo dục thường thấp hơn nhiều so với vốn đầu tư công, khiến cơ cấu hiện tại càng trở nên kém hiệu quả.
“Cách bố trí vốn thiên về xây dựng, mua sắm nhưng lại thiếu nguồn lực cho vận hành, nâng cấp, tiềm ẩn nguy cơ rơi vào “bẫy” đầu tư hình thức, có thể xây dựng được nhiều công trình, trường lớp khang trang nhưng lại thiếu giáo viên, thiếu năng lực đổi mới phương pháp dạy học và thiếu kinh phí duy trì, vận hành thiết bị” - đại biểu trăn trở.
Thiết lập cơ chế giám sát độc lập, tránh lãng phí
Bên cạnh việc bảo đảm cân đối nguồn vốn đầu tư, các đại biểu Quốc hội cũng đề xuất giải pháp để việc phân bổ, sử dụng vốn hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí.
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn TP. Hồ Chí Minh) - đề nghị Ban soạn thảo xem xét, bổ sung cơ chế phân bổ và giải ngân gắn với chỉ tiêu đầu ra có thể đo lường như: số phòng học kiên cố đưa vào sử dụng, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, số lượng người học được thụ hưởng các chương trình nâng cao năng lực, mức độ chuyển đổi số của cơ sở giáo dục. “Việc phân bổ vốn theo đầu ra sẽ khắc phục cơ chế xin - cho, thúc đẩy tiến độ và nâng hiệu quả thu ngân sách đầu tư” – đại biểu nói.
Cùng với đó, để bảo đảm hiệu quả và tránh thất thoát, đại biểu đề nghị xem xét thiết lập cơ chế giám sát độc lập đối với đầu tư cơ sở vật chất và mua sắm trang thiết bị dạy học, nhằm chấm dứt tình trạng mua sắm lãng phí, sai nhu cầu hoặc thiết bị không sử dụng. Đây là nội dung cấp thiết để bảo vệ ngân sách nhà nước và nâng cao hiệu quả đầu tư công cho giáo dục và đào tạo.
Đồng thời, để huy động đa dạng nguồn lực thực hiện Chương trình, Ban soạn thảo cần xem xét bổ sung cơ chế ưu đãi, bảo đảm rủi ro pháp lý, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư khi doanh nghiệp tham gia đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo nhân lực và chuyển đổi số giáo dục theo hình thức đối tác công - tư. Khi nguồn lực xã hội hóa minh bạch sẽ giảm áp lực lên ngân sách nhà nước và tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong giáo dục và đào tạo.
Đại biểu Thạch Phước Bình cũng đề nghị ban hành kịp thời các quy chuẩn, định mức hướng dẫn kỹ thuật liên quan đến triển khai Chương trình; quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, UBND các tỉnh, thành phố, tránh chồng chéo. Đồng thời, thiết lập cơ chế kiểm soát chặt chẽ gắn với giám sát độc lập, bao gồm hệ thống báo cáo điện tử, thống nhất, công khai tiến độ giải ngân…












