Cấp bách ban hành Luật An ninh mạng
Việc hợp nhất hai Luật An ninh mạng và An toàn thông tin mạng đã được đặt ra như một yêu cầu tất yếu để đảm bảo an toàn trong môi trường số. Điều này không chỉ góp phần bảo vệ quyền lợi của người dân mà còn nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với hệ thống thông tin quốc gia.

Sau 28 năm chính thức kết nối Internet, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ viễn thông, Internet đã tạo ra thời cơ mới để Việt Nam nhanh chóng đón bắt, tranh thủ các thành tựu khoa học công nghệ đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việt Nam đã và đang xây dựng và triển khai hiệu quả nhiều Chương trình, Kế hoạch quốc gia về phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số, nổi bật là Chương trình quốc gia về Công nghệ thông tin; Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin và truyền thông đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; Chương trình Chuyển đổi số quốc gia năm 2020. Chính sách, pháp luật nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin phát triển kinh tế số - xã hội số, bảo đảm an ninh mạng được hoàn thiện.
Trong đó, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cho thấy một tư duy, tầm nhìn mới, định hướng đưa đất nước phát triển trong kỷ nguyên mới.
Không gian mạng đặt ra những nguy cơ, thách thức đối với công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, không gian mạng còn đặt ra những nguy cơ, thách thức đối với công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định: "An ninh mạng ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta". Hoạt động tấn công mạng, gián điệp mạng của các nhóm tin tặc, lộ mất thông tin, dữ liệu cá nhân diễn ra ngày càng nguy hiểm. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng không gian mạng để tuyên truyền phá hoại tư tưởng, chống phá Đảng, Nhà nước trên không gian mạng. Tội phạm sử dụng công nghệ cao diễn ra ngày càng phức tạp, với các phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Thời gian qua, hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự trên không gian mạng ở nước ta ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường, nổi lên là:
Hoạt động tấn công mạng, gián điệp mạng tại Việt Nam diễn ra ngày càng phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia. Các nhóm tin tặc quốc tế đã tổ chức chiến dịch tấn công mã hóa dữ liệu, đòi tiền chuộc quy mô lớn chưa từng có nhằm vào các tập đoàn, doanh nghiệp tài chính, năng lượng, viễn thông làm ngưng trệ hoạt động điều hành, quản trị xã hội, gây thiệt hại lớn về kinh tế, ảnh hưởng tình hình an ninh trật tự.
Nguy cơ mất an ninh hệ thống mạng ngày càng cao nhưng công tác bảo đảm an ninh mạng tại một số đơn vị chủ quản hệ thống chưa được quan tâm, triển khai một cách đồng bộ.
Việc đầu tư, xây dựng hạ tầng mạng chưa đáp ứng yêu cầu, tồn tại nhiều lỗ hổng bảo mật; quy trình, quy chế quản trị, vận hành, khai thác hệ thống chưa chặt chẽ; các đơn vị chủ quản bị động trong việc ứng cứu, khắc phục khi xảy ra các sự cố.
Tình trạng lộ mất bí mật nhà nước, thu thập, mua bán trái phép thông tin, dữ liệu cá nhân tiếp tục xảy ra ở nhiều cơ quan, đơn vị. Các đối tượng lợi dụng các lỗ hổng, điểm yếu bảo mật tại các hệ thống để trực tiếp tấn công, xâm nhập, đánh cắp thông tin, dữ liệu cá nhân để trao đổi, mua bán trên không gian mạng.
Một số công ty, doanh nghiệp trong và ngoài nước sử dụng các công cụ, phần mềm chuyên dụng để âm thầm khai thác, thu thập, xử lý dữ liệu cá nhân của người dùng, hình thành kho dữ liệu cá nhân, phân tích, xử lý các loại dữ liệu đó để tiến hành kinh doanh, buôn bán; cho phép các đối tác thứ ba tiếp cận thông tin dữ liệu cá nhân nhưng không có yêu cầu, quy định chặt chẽ, để đối tác thứ ba chuyển giao, buôn bán cho các đối tác khác; việc quản lý, kiểm soát dữ liệu tại một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp còn lỏng lẻo, thiếu cơ chế giám sát, dẫn đến nhân viên lợi dụng vi trí tiếp cận với kho dữ liệu của khách hàng để chiếm đoạt, bán ra ngoài để trục lợi sau khi nghỉ việc, hoặc chuyển vị trí công tác...
Hoạt động trao đổi, mua bán trái phép thông tin, dữ liệu cá nhân diễn ra công khai trên một số diễn đàn, hội nhóm được tổ chức thành các đường dây quy mô lớn, với hàng nghìn thành viên tham gia.
Hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước trên không gian mạng. Hiện nay, bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, các điểm nóng về chính trị, xung đột vũ trang xảy ra tại nhiều nơi. Trong nước diễn ra các sự kiện, chính trị đối ngoại quan trọng; nhân sự lãnh đạo cấp cao có nhiều sự thay đổi; phát sinh nhiều vụ việc phức tạp về an ninh trật tự.
Các thế lực thù địch, số đối tượng chống đối trong, ngoài nước triệt để lợi dụng đăng tải nhiều tin, bài viết, video tuyên truyền phá hoại tư tưởng, trong đó tập trung chủ yếu trên các nền tảng mạng xã hội.
Hoạt động sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội diễn ra ngày càng phức tạp, gây bức xúc trong xã hội, gây thiệt hại lớn về tài sản cho người dân, nhất là hoạt động lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, đánh bạc và tổ chức đánh bạc, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, mua bán vũ khí, vật liệu nổ, ma túy, bằng cấp giả.
Để bảo đảm an ninh mạng, đấu tranh phòng, chống tội phạm mạng, năm 2015, Luật An toàn thông tin mạng được xây dựng và ban hành; năm 2018, Luật An ninh mạng được ban hành. Đến nay, quá trình triển khai thực hiện 02 Luật này đã mang lại hiệu quả tốt trong công tác bảo đảm an ninh mạng, phòng, chống tội phạm mạng.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Ban Chỉ đạo Trung ương Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, ngày 18/02/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 02/2025/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an (có hiệu lực từ ngày 01/3/2025), theo hướng giảm tầng nấc, giảm cấp trung gian để tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, khắc phục triệt để tình trạng trùng dẫm, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực, gây khó khăn, giảm hiệu quả trong tổ chức phục vụ người dân, doanh nghiệp, nhằm phục vụ Nhân dân tốt hơn.
Về chức năng, nhiệm vụ, Bộ Công an tiếp nhận 05 nhóm nhiệm từ các bộ, ngành, trong đó tiếp nhận nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng từ Bộ Thông tin và Truyền thông (trước đây).
Bộ Công an giao Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao là đơn vị trực tiếp tiếp nhận nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng; đặc biệt là việc tiếp nhận, giải quyết 10 thủ tục hành chính thuộc 03 dịch vụ công: Cấp phép, cấp lại, gia hạn, sửa đổi, bổ sung giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng; Cấp phép, cấp lại giấy phép nhập khẩu sản phẩm an toàn thông tin mạng; Cấp Giấy chứng nhận tên định danh.

Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang và các đại biểu tham quan các gian hàng trưng bay tại Ngày An ninh mạng Việt Nam.
Khẩn trương hợp nhất Luật An ninh mạng năm 2018 và Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 thành Luật An ninh mạng
Trước tình hình trên, yêu cầu hoàn thiện, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật là hết sức cấp bách để đảm bảo đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước theo mô hình tổ chức mới.
Trong đó, phải khẩn trương hợp nhất Luật An ninh mạng năm 2018 và Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 thành Luật An ninh mạng theo nguyên tắc không làm thay đổi chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành, không tạo ra chính sách mới; bảo đảm thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số 18 của Ban Chấp hành Trung ương về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là "một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính", bảo đảm phân công, phân cấp rõ ràng tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, phạm vi quản lý, bỏ sót địa bàn, chỉ quy định trong Luật này những nội dung đúng thẩm quyền của Quốc hội, không quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ, các bộ và các cơ quan khác, không quy định lại những nội dung đã được quy định trong các luật khác; đối với những vấn đề mới thực tiễn biến động thường xuyên, chưa ổn định thì chỉ quy định khung, mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ, các Bộ quy định.
Báo cáo thẩm tra Dự thảo Luật An ninh mạng, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại nhất trí với các nội dung được điều chỉnh trong dự thảo Luật.
Dự thảo Luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm tính hợp Hiến, thống nhất với hệ thống pháp luật.
Cơ quan soạn thảo đã quán triệt và thực hiện các chỉ đạo về đối mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật. Hồ sơ dự án Luật được xây dựng theo trình tự, thủ tục rút gọn, đáp ứng các yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Tại sao cần phải hợp nhất hai bộ Luật An ninh mạng và An toàn thông tin mạng, lợi ích của việc hợp nhất là gì?
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, an ninh mạng và an toàn thông tin mạng trở thành vấn đề cấp thiết đối với mỗi quốc gia. Chính vì vậy, việc hợp nhất hai bộ luật An ninh mạng và An toàn thông tin mạng đã được đặt ra như một yêu cầu tất yếu để đảm bảo an toàn trong môi trường số. Điều này không chỉ góp phần bảo vệ quyền lợi của người dân mà còn nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với hệ thống thông tin quốc gia.
Khái niệm và sự khác biệt?
An ninh mạng thường được hiểu là các biện pháp bảo vệ hệ thống mạng khỏi các cuộc tấn công nhằm xâm nhập, phá hoại hoặc lấy cắp dữ liệu. Đây là yếu tố then chốt để bảo vệ các hạ tầng kỹ thuật quan trọng của đất nước khỏi sự đe dọa từ các hành vi tội phạm mạng.
An toàn thông tin mạng lại liên quan đến việc đảm bảo tính bảo mật, toàn vẹn và khả dụng của thông tin trong quá trình truyền tải qua mạng. Điều này không chỉ bao gồm các biện pháp bảo vệ dữ liệu mà còn là việc ngăn ngừa sự truy cập trái phép và đảm bảo thông tin không bị thay đổi một cách bất hợp pháp.
Dù hai khái niệm này có sự khác biệt nhất định, nhưng chúng lại có mối quan hệ mật thiết và bổ sung cho nhau trong việc bảo vệ không gian mạng. Hệ thống thông tin của mỗi quốc gia luôn đối mặt với nguy cơ từ các mối đe dọa mạng, từ tin tặc, các tổ chức tội phạm cho đến các mối nguy hại đến từ các yếu tố bên ngoài.
Tại sao cần phải hợp nhất hai bộ luật này?
Tăng cường sự đồng bộ trong công tác quản lý: Việc hợp nhất hai bộ luật giúp tạo ra một khuôn khổ pháp lý đồng bộ và rõ ràng hơn trong việc quản lý các vấn đề an ninh và an toàn mạng. Điều này sẽ giúp giảm thiểu sự chồng chéo trong các quy định, đồng thời nâng cao hiệu quả thực thi.
Đáp ứng nhu cầu bảo vệ toàn diện: Các mối đe dọa trên không gian mạng ngày càng tinh vi và khó lường. Một hệ thống pháp lý thống nhất sẽ giúp các cơ quan chức năng dễ dàng hơn trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm. Chúng ta cần có một cái nhìn toàn diện về an ninh và an toàn thông tin mạng để có thể bảo vệ mọi mặt của không gian số.
Hỗ trợ trong việc phát triển nền kinh tế số: Trong kỷ nguyên số, các hoạt động kinh tế, giao dịch trực tuyến, và việc sử dụng các dịch vụ số ngày càng trở nên phổ biến. Để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế số, cần có một hệ thống pháp lý vững chắc bảo vệ người dân, doanh nghiệp và các tổ chức khỏi các rủi ro từ các cuộc tấn công mạng.
Ứng phó với các thách thức quốc tế: Trên phạm vi quốc tế, các mối đe dọa từ không gian mạng không biên giới. Các tổ chức tội phạm mạng có thể hoạt động xuyên quốc gia, gây thiệt hại cho nhiều quốc gia cùng một lúc. Hợp nhất các quy định về an ninh và an toàn thông tin mạng sẽ giúp các quốc gia phối hợp chặt chẽ hơn trong việc đối phó với các mối đe dọa này.
Lợi ích của việc hợp nhất các bộ luật
Sự rõ ràng và nhất quán trong pháp luật: Khi hai bộ luật được hợp nhất, các quy định liên quan đến an ninh và an toàn mạng sẽ được đưa vào một khung pháp lý thống nhất, giảm bớt sự chồng chéo và mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật khác nhau.
Nâng cao khả năng bảo vệ thông tin cá nhân và dữ liệu: Việc hợp nhất giúp nhà nước có thể xây dựng các cơ chế bảo vệ quyền lợi của công dân trong không gian mạng một cách hiệu quả hơn. Các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư của người sử dụng mạng xã hội hay các dịch vụ trực tuyến sẽ được quy định rõ ràng hơn.
Tạo ra môi trường pháp lý minh bạch, dễ tiếp cận: Với việc hợp nhất hai bộ luật, các tổ chức, doanh nghiệp và người dân có thể dễ dàng hiểu và tuân thủ các quy định liên quan đến an ninh và an toàn thông tin mạng.
Đảm bảo sự linh hoạt trong thực thi pháp luật: Với sự phát triển không ngừng của công nghệ và các hình thức tội phạm mạng, việc hợp nhất sẽ giúp pháp luật có sự linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh chóng với các thách thức mới.
Trong một thế giới ngày càng kết nối, việc bảo vệ an ninh và an toàn thông tin mạng không chỉ là vấn đề của các cơ quan chức năng mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Hợp nhất Luật An ninh mạng và Luật An toàn thông tin mạng không chỉ là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay mà còn là bước đi cần thiết để đảm bảo một môi trường số an toàn, bảo mật và phát triển bền vững cho cả quốc gia và người dân. Để đáp ứng với những thách thức mới trong không gian mạng, chúng ta cần một hệ thống pháp lý mạnh mẽ và đồng bộ.

Nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng vì một Việt Nam hùng cường
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, an ninh mạng đã trở thành một yếu tố sống còn đối với sự ổn định và phát triển của các quốc gia. Việt Nam, với một nền kinh tế số đang trên đà phát triển mạnh mẽ, cũng không thể đứng ngoài cuộc trong việc đối mặt với các thách thức an ninh mạng. Việc nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng là một yêu cầu cấp thiết, không chỉ để bảo vệ an toàn cho các cơ sở hạ tầng quan trọng của quốc gia mà còn để duy trì sự ổn định xã hội và phát triển kinh tế bền vững.
1. Bảo vệ hạ tầng quan trọng của quốc gia
Hạ tầng mạng quốc gia của Việt Nam, từ các cơ sở dữ liệu của chính phủ, ngân hàng, doanh nghiệp cho đến các mạng viễn thông, đều là mục tiêu của các cuộc tấn công mạng ngày càng tinh vi và phức tạp. Các cuộc tấn công có thể đến từ các nhóm hacker, tổ chức tội phạm, thậm chí là các quốc gia có chủ đích xâm nhập vào hạ tầng mạng để gây thiệt hại về kinh tế, chính trị và quốc phòng.
Việc nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng giúp Việt Nam có thể bảo vệ được các cơ sở hạ tầng này, đảm bảo sự ổn định của các hoạt động trọng yếu như điều hành quốc gia, giao dịch tài chính, y tế, và các dịch vụ công.
2. Đảm bảo quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp
Khi xã hội ngày càng phụ thuộc vào công nghệ thông tin, việc bảo vệ thông tin cá nhân và dữ liệu của người dân là một vấn đề quan trọng. Các vụ lộ lọt thông tin cá nhân, mất dữ liệu hay tấn công vào các hệ thống ngân hàng có thể gây thiệt hại nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Việc nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng giúp Việt Nam có thể xây dựng các giải pháp bảo vệ thông tin cá nhân, dữ liệu doanh nghiệp, cũng như đảm bảo sự an toàn cho các giao dịch trực tuyến. Điều này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của người dân mà còn tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, nâng cao niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
3. Đối phó với các mối đe dọa từ bên ngoài
Trong bối cảnh an ninh mạng ngày càng trở thành một yếu tố chiến lược, các mối đe dọa từ bên ngoài, đặc biệt là từ các đối tượng có chủ đích xâm nhập và tấn công mạng vào các cơ sở hạ tầng quan trọng của quốc gia, là điều không thể lường trước. Các cuộc tấn công mạng có thể gây ra những thiệt hại nặng nề đối với nền kinh tế và an ninh quốc gia.
Việc nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng giúp Việt Nam có thể chủ động hơn trong việc phát hiện, ngăn chặn và đối phó với các mối đe dọa này, không phải hoàn toàn phụ thuộc vào các đối tác quốc tế trong việc bảo vệ an ninh mạng.
4. Phát triển nền kinh tế số và ứng dụng công nghệ cao
Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ trong việc xây dựng nền kinh tế số, nơi mà các hoạt động sản xuất, giao dịch và cung cấp dịch vụ đều dựa vào công nghệ thông tin. Cùng với đó, các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, blockchain, Internet of Things (IoT) ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các ngành nghề khác nhau.
Tuy nhiên, với sự phát triển này, các nguy cơ về an ninh mạng cũng gia tăng. Nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng sẽ giúp Việt Nam xây dựng một môi trường số an toàn, bảo vệ các hệ thống công nghệ cao và hỗ trợ sự phát triển bền vững của nền kinh tế số.
5. Đảm bảo chủ quyền quốc gia trong không gian mạng
Không gian mạng không có biên giới, và các quốc gia trên thế giới đang tranh giành ảnh hưởng trong lĩnh vực này. Việc phụ thuộc vào các công ty công nghệ lớn từ nước ngoài có thể dẫn đến việc mất kiểm soát đối với dữ liệu quốc gia và thông tin nhạy cảm. Điều này cũng tạo ra nguy cơ về khả năng can thiệp từ các yếu tố bên ngoài vào chính sách và quyết định của quốc gia.
Việc nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng giúp Việt Nam bảo vệ được chủ quyền quốc gia trong không gian mạng, đảm bảo an toàn cho các dữ liệu và hệ thống thông tin chiến lược, tránh bị tác động bởi các yếu tố ngoại bang.
6. Tạo dựng hệ thống pháp lý và thể chế mạnh mẽ
Để xây dựng năng lực tự chủ về an ninh mạng, không chỉ cần đầu tư vào công nghệ mà còn phải phát triển hệ thống pháp lý và thể chế quản lý an ninh mạng. Điều này bao gồm việc hoàn thiện các quy định pháp luật, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, và xây dựng các tổ chức chuyên trách về an ninh mạng.
Việc tự chủ về an ninh mạng còn giúp Việt Nam có thể ứng phó hiệu quả với các vấn đề an ninh mạng mà không bị lệ thuộc quá nhiều vào sự hỗ trợ từ các quốc gia khác. Điều này càng trở nên quan trọng trong bối cảnh các cuộc tấn công mạng ngày càng diễn ra phức tạp và tinh vi hơn.
Tăng cường năng lực tự chủ về an ninh mạng là một yêu cầu không thể thiếu đối với Việt Nam trong việc bảo vệ an toàn thông tin quốc gia, đảm bảo quyền lợi của người dân và doanh nghiệp, đồng thời giữ vững chủ quyền quốc gia trong không gian mạng. Đây cũng là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam phát triển bền vững trong nền kinh tế số, đảm bảo an ninh và ổn định xã hội trong bối cảnh thế giới ngày càng phụ thuộc vào công nghệ số.











