Chiến dịch Huế - Đà Nẵng

Chiến dịch Huế - Ðà Nẵng là một trong 3 chiến dịch giành thắng lợi mang ý nghĩa chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong đại thắng mùa Xuân năm 1975. (Chiến dịch Tây Nguyên là chiến dịch đầu tiên và kết thúc là chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh). Chiến dịch Huế - Ðà Nẵng thắng lợi có ý nghĩa to lớn, tạo ra được bước ngoặt cơ bản về cục diện chiến tranh, khẳng định kết cục thất bại tất yếu, không gì cứu vãn nổi của bộ máy chiến tranh khổng lồ của chế độ Mỹ - ngụy. Thắng lợi đó cũng tạo ra thế và lực, thời cơ lớn để Bộ Chính trị thêm khẳng định quyết tâm chiến lược kết thúc chiến tranh sớm hơn bằng việc mở Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh, giành thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, lập lại hòa bình, thống nhất đất nước.

Các lực lượng vũ trang giải phóng tiến vào cửa Ngọ Môn (Huế) sáng 26/3/1975.

Các lực lượng vũ trang giải phóng tiến vào cửa Ngọ Môn (Huế) sáng 26/3/1975.

Ảnh: Tư liệu

Trên chiến trường Trị Thiên - Huế và Quảng Nam - Ðà Nẵng (vùng 1 chiến thuật), từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/1/1973, Mỹ - ngụy xác định chiến trường này là “cánh cửa sắt” phòng thủ của toàn chiến trường miền nam, một địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng. Chúng đã bố trí trên chiến trường này tới 6 sư đoàn bộ binh “anh cả”, trong đó có hai sư đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị cơ động chiến lược (sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ); 4 liên đoàn biệt động quân, 5 thiết đoàn xe tăng thiết giáp, với 449 xe tăng; 8 lữ đoàn pháo binh cơ giới với 418 pháo hạng nặng; 6 hải đoàn, giang đoàn (tương đương cấp trung đoàn); 1 sư đoàn không quân với hơn 300 máy bay chiến đấu các loại. Lực lượng quân số hơn 11 vạn tên, chưa tính gần 2 vạn lực lượng bảo an dân vệ, với mức so sánh cứ 7 người dân có 1 lính đánh thuê kìm kẹp khống chế.

Lực lượng địch được bố trí tập trung trên hai địa bàn chiến lược là chung quanh thành phố Huế (Sở Chỉ huy tiền phương quân đoàn 1 ngụy) và thành phố Ðà Nẵng, căn cứ quân sự liên hiệp, có Sở Chỉ huy tổng hành dinh vùng 1 chiến thuật của Trung tướng ngụy Ngô Quang Trưởng, tư lệnh quân khu 1. Từ tháng 10/1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã triệu tập Thường vụ Quân khu ủy Trị Thiên và Quân khu 5 ra Hà Nội báo cáo tình hình và nhận nhiệm vụ chiến dịch. Thay mặt Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho 2 Quân khu năm 1975 phải đánh bại kế hoạch “bình định”, lấn chiếm của địch, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, cải thiện một bước cơ bản thế trận phòng thủ, giam chân các sư đoàn tổng dự bị cơ động chiến lược tại chiến trường Trị Thiên, không cho chúng cơ động di chuyển đi ứng cứu chiến trường khác. Phải ra sức chuẩn bị mọi mặt khi thời cơ đến, hoặc do nỗ lực chủ quan của quân và dân ta tạo ra thời cơ đó thì lập tức tập trung sức mạnh tổng hợp trên toàn chiến trường để giải phóng Huế - Ðà Nẵng và góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Lực lượng tham gia chiến dịch Huế - Ðà Nẵng có Quân đoàn 2 bộ đội chủ lực cơ động của Bộ (Quân đoàn gồm có các sư đoàn bộ binh 324, 325 và 304; lữ đoàn xe tăng 203; sư đoàn phòng không 673; lữ đoàn pháo binh 164); các trung đoàn độc lập 4, 6, 271. Lực lượng quân và dân Quân khu 5 gồm sư đoàn bộ binh 2, mặt trận 4 Quảng Ðà và một số trung đoàn bộ đội địa phương Quân khu.

Toàn chiến dịch được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn 1 mang biệt danh chiến dịch K175 tiến công tiêu diệt quân địch trên chiến trường Quảng Trị - Thừa Thiên - Huế; giai đoạn 2 tấn công giải phóng thành phố Ðà Nẵng - Quảng Nam (khi thời cơ cho phép).

Tư tưởng chỉ đạo hành động cho toàn Chiến dịch là: “Bí mật, bất ngờ, táo bạo, chắc thắng, nắm vững thời cơ, sẵn sàng phát triển tấn công, giành thắng lợi lớn trên toàn chiến trường”.

Chiến dịch được mở màn và diễn ra từ ngày 8/3, kết thúc vào ngày 29/3/1975. Trong 21 ngày đêm chiến đấu tiến công liên tục, vượt qua mọi thử thách ác liệt, khó khăn, quân và dân 2 Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5 và Quân đoàn 2 chủ lực đã lập chiến công đặc biệt xuất sắc, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng quân đoàn 1, quân khu 1 và sư đoàn lính thủy đánh bộ, loại khỏi vòng chiến đấu trên 10 vạn tên địch, thu hồi toàn bộ cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng, giải phóng hoàn toàn các tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên, Quảng Nam - Ðà Nẵng.

(Còn nữa)

Theo Báo Nhân Dân

Nguồn Sơn La: http://www.baosonla.org.vn/vi/bai-viet/chien-dich-hue--da-nang-30667