Chuyển đổi số - chìa khóa đưa metro Hà Nội tiến gần chuẩn quốc tế

Tại cuộc Hội thảo quốc tế 'Chuyển đổi số trong vận hành và bảo trì đường sắt đô thị' mới đây đã nêu rõ do quy mô hệ thống, thiếu hệ sinh thái hoàn chỉnh nên Hà Nội vẫn chưa thể tự chủ công nghệ, từ vận hành đến bảo trì.

Hà Nội mới ở giai đoạn đầu của số hóa

Theo ông Khuất Việt Hùng - Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH MTV Đường sắt Hà Nội (Hà Nội Metro) - hiện nay, thành phố mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình số hóa.

Việc làm chủ công nghệ tàu điện metro là cần thiết. Ảnh minh họa.

Việc làm chủ công nghệ tàu điện metro là cần thiết. Ảnh minh họa.

Hai tuyến metro đang khai thác vẫn chỉ là “mảnh ghép rất nhỏ” trong tổng thể mạng lưới tương lai, trong khi yêu cầu tự chủ công nghệ ngày càng cấp bách. Điều này buộc Hà Nội phải xác định rõ các khâu ưu tiên: từ vận hành, bảo trì đoàn tàu, khai thác hạ tầng đến nâng cao trải nghiệm hành khách.

Theo chuyên gia quốc tế Basile Hassan (PRX Vietnam), nguyên Quản lý Dự án tại IDFM - Cơ quan Giao thông công cộng vùng Paris, kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy mọi thành tựu công nghệ metro đều bắt đầu từ mô hình “5 nhà”: Chính phủ, cơ quan quản lý, doanh nghiệp vận hành, viện nghiên cứu và trường đại học.

Trong đó, Chính phủ đóng vai trò ban hành chiến lược 5 năm, thiết lập tiêu chuẩn công nghệ lõi và mở không gian thử nghiệm cho doanh nghiệp ICT.

Hà Nội hiện chưa có cấu trúc hợp tác tương tự. Thiếu môi trường thử nghiệm khiến doanh nghiệp công nghệ khó phát triển giải pháp; thiếu tiêu chuẩn chung gây khó khăn trong liên thông dữ liệu; thiếu nền tảng nghiên cứu khiến các trường đại học không thể đào tạo theo nhu cầu thực tiễn. Khi các mắt xích không vận hành đồng bộ, mục tiêu tự chủ công nghệ gần như bất khả thi.

Tại Thái Lan, MRTA cho thấy muốn tự chủ bảo trì, trước hết phải tự chủ dữ liệu. Hệ thống CMMS và ACMDS của nước này cho phép thu thập, phân tích và dự báo tình trạng thiết bị theo thời gian thực. Nhờ đó, việc bảo trì chuyển từ thụ động sang chủ động, giảm hỏng hóc đột xuất và tiết kiệm chi phí.

Hà Nội hiện chưa có hệ thống giám sát tương tự ở quy mô lớn. Không có dữ liệu thời gian thực, rất khó xây dựng thuật toán dự báo hoặc mô hình bảo trì thông minh. Dữ liệu phân tán ở nhiều đơn vị khiến công tác phân tích và chuẩn hóa trở thành thách thức lớn nhất.

Metro Đài Bắc (Đài Loan, Trung Quốc) đã đưa AI vào hầu hết các khâu: Kiểm soát an toàn lao động, phân luồng hành khách, dự báo lỗi thiết bị, tối ưu vận hành đoàn tàu. Họ thu thập dữ liệu từ 33 nhóm thiết bị, xây dựng mô hình dự báo và tích hợp vào trung tâm điều hành.

Trong khi đó, Hà Nội mới ở những bước đầu tiên của lộ trình số hóa; dự kiến đến năm 2027 mới phát triển được các phần mềm trọng yếu. Khi nền tảng dữ liệu và vận hành chưa hoàn chỉnh, AI chưa thể phát huy vai trò.

Tự chủ công nghệ đường sắt đô thị đòi hỏi đội ngũ kỹ sư am hiểu đồng thời cơ khí, điện, phần mềm, thuật toán và an toàn hệ thống. Nhiều ý kiến tại hội thảo cho thấy Hà Nội hiện chưa có mô hình hợp tác đào tạo đủ mạnh giữa nhà vận hành - trường đại học - viện nghiên cứu, trong khi các nước khác đã hình thành chu trình khép kín: nghiên cứu - thử nghiệm - ứng dụng.

Thiếu nhân lực đủ trình độ khiến Hà Nội khó đảm đương các công tác đại tu, trùng tu hệ thống hoặc tự xây dựng thuật toán giám sát - dự báo như các metro tiên tiến.

Chuyển đổi số là chìa khóa quan trọng

Chia sẻ về tầm nhìn chuyển đổi số trong quản lý, vận hành và bảo trì hệ thống đường sắt đô thị, ông Khuất Việt Hùng cho rằng chuyển đổi số là chìa khóa quan trọng để tự động hóa quy trình, chuẩn hóa quản lý vận hành, tăng khả năng dự báo và xử lý sự cố. Ứng dụng nền tảng số giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, giảm phụ thuộc vào quy trình thủ công và tăng mức độ an toàn khai thác.

Theo ông Hùng, hiện nay công tác chuyển đổi số tại Hà Nội Metro đang được triển khai từng phần, là quá trình dài hạn đòi hỏi đầu tư đồng bộ từ hạ tầng dữ liệu, phần mềm đến năng lực nhân sự. Mục tiêu cuối cùng là xây dựng một hệ thống vận hành thống nhất, thông minh và có khả năng kế thừa khi các tuyến mới đi vào hoạt động.

Về mục tiêu chuyển đổi số, Hà Nội Metro đặt ra các định hướng lớn: xây dựng hệ thống quản lý vận hành, khai thác dựa trên dữ liệu số hóa toàn diện; hình thành nền tảng bảo trì thông minh; ứng dụng phần mềm quản trị bảo trì kết cấu hạ tầng; tối ưu hóa quy trình nội bộ bằng hệ thống ERP; tạo lập cơ sở dữ liệu lớn phục vụ điều hành và hoạch định chính sách.

Ông Hùng khẳng định những mục tiêu này hướng đến mô hình doanh nghiệp giao thông công cộng hiện đại, minh bạch và có khả năng mở rộng.

Trong giai đoạn tới, Hà Nội Metro đề xuất nhóm giải pháp tập trung vào ba trụ cột: công nghệ, hạ tầng dữ liệu và năng lực con người. Đây được kỳ vọng là nền tảng tạo đột phá, đưa hoạt động vận hành metro tiến gần hơn với tiêu chuẩn quốc tế.

Hà Nội Metro xây dựng lộ trình triển khai chuyển đổi số theo ba giai đoạn: Đến năm 2027: Phát triển các phần mềm trọng yếu phục vụ quản lý và vận hành; Đến năm 2030: Hoàn thiện hệ thống phần mềm điều hành thống nhất; vận hành hiệu quả hệ thống ERP và phần mềm bảo trì kết cấu hạ tầng.

Tầm nhìn đến năm 2045: Xây dựng trung tâm dữ liệu số quy mô lớn; hình thành mô hình kinh tế số dựa trên dữ liệu ngành đường sắt đô thị; tăng cường hợp tác quốc tế, chuẩn hóa mô hình theo các đô thị tiên tiến.

Theo các chuyên gia quốc tế, để tiến tới tự chủ công nghệ, Hà Nội cần xây dựng môi trường thử nghiệm mở cho doanh nghiệp ICT, sớm ban hành các tiêu chuẩn chung nhằm tránh tình trạng dữ liệu “mỗi nơi một kiểu”, đồng thời thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ với các trường đại học để đào tạo nguồn nhân lực đúng nhu cầu thực tiễn.

Quan trọng hơn cả là sự thống nhất trong chiến lược từ cấp quản lý. Tự chủ công nghệ metro không chỉ là mục tiêu kỹ thuật, mà là quá trình kiến tạo một hệ sinh thái, nơi các chủ thể cùng chia sẻ trách nhiệm, nguồn lực và lợi ích.

Lê Tươi

Nguồn Xây Dựng: https://baoxaydung.vn/chuyen-doi-so-chia-khoa-dua-metro-ha-noi-tien-gan-chuan-quoc-te-19225120912462056.htm