Chuyên gia hiến kế phát triển các ngành khoa học cơ bản

Theo các chuyên gia, đầu tư phát triển các ngành khoa học cơ bản không chỉ cần tăng về số lượng người học mà còn cần nâng cao chất lượng giảng dạy.

Những năm gần đây, không ít cơ sở giáo dục gặp khó khăn trong việc tuyển sinh các ngành khoa học cơ bản. Một số trường dù điểm chuẩn thấp nhưng vẫn không tuyển sinh đủ chỉ tiêu.

Nguyên nhân được các trường đại học chỉ ra là mức lương và chế độ đãi ngộ của người làm trong các ngành khoa học cơ bản thấp, chưa có nhiều chính sách hỗ trợ, cấp học bổng, cũng như xã hội chưa hiểu rõ về tầm quan trọng của nhóm ngành này.

Ngành khoa học cơ bản là nền móng cho các ngành khác nhưng đang dần mất đi sức hút

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo nhân dân Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nhận định, trong bất kỳ nền khoa học nào, ngành khoa học cơ bản là nền móng vững chãi cho các ngành khác phát triển.

“Nếu ví tri thức khoa học như một tòa nhà, các ngành khoa học cơ bản chính là phần cốt lõi như móng nhà và khung sườn, giúp giữ cho tòa nhà đứng vững. Phần cốt lõi này ít được nhìn thấy và khó nhận biết, tuy nhiên, nó lại đóng vai trò quan trọng. Tương tự, ngành khoa học cơ bản không trực tiếp tạo ra những sản phẩm hay dịch vụ dễ nhìn thấy và sử dụng ngay lập tức nhưng lại là nền tảng cho tất cả các tiến bộ khoa học, công nghệ về sau”, Giáo sư Vũ Minh Giang nhận định.

 Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo Nhân dân Vũ Minh Giang. (Ảnh: Nhật Lệ)

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo Nhân dân Vũ Minh Giang. (Ảnh: Nhật Lệ)

Theo Giáo sư Vũ Minh Giang, trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, người học ngày càng chú trọng vào những ngành học có khả năng tìm kiếm việc làm nhanh chóng và thu nhập cao như công nghệ thông tin, kinh tế hay các ngành kỹ thuật ứng dụng. Trong khi đó, số lượng vị trí việc làm cho các ngành khoa học cơ bản rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở các viện nghiên cứu hoặc giảng dạy tại các trường đại học. Điều này dẫn đến một nghịch lý là những ngành học đòi hỏi sự tập trung, nỗ lực lớn của người học lại không được đánh giá cao về mặt cơ hội nghề nghiệp, khiến cho người học ngày càng e ngại tiếp cận.

“Một trong những nguyên nhân khiến các ngành khoa học cơ bản giảm sức hút là do xã hội chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của nhóm ngành này. Đồng thời, hiện cũng chưa có nhiều chính sách hỗ trợ đặc biệt dành sinh viên theo đuổi các ngành khoa học cơ bản. Ở các quốc gia phát triển, người học có năng lực nghiên cứu và đam mê với khoa học cơ bản thường được hưởng những chính sách khuyến khích đặc biệt từ phía Nhà nước. Từ đó giúp họ có điều kiện tốt hơn để theo đuổi con đường nghiên cứu và giảng dạy. Tuy nhiên, ở Việt Nam, sự quan tâm đến khoa học cơ bản vẫn còn nhiều hạn chế.

Một nguyên nhân khác là các ngành khoa học cơ bản rất khó, đòi hỏi người học phải đam mê, có năng lực tư duy và sự bền bỉ trong quá trình nghiên cứu. Trên thực tế, không phải ai cũng có khả năng theo đuổi đến cùng và thành công trong các lĩnh vực này. Do đó, sau khi trải qua những khó khăn trong thời gian dài mà cơ hội việc làm lại hạn chế, người học dễ cảm thấy nản chí và lựa chọn những ngành học khác dễ tiếp cận hơn và có tiềm năng nghề nghiệp tốt hơn”, thầy Giang nhận định.

Đồng tình với quan điểm này, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hùng Huy - Trưởng bộ môn Hóa Vô cơ, Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định, tầm quan trọng của ngành khoa học cơ bản không chỉ được nêu trong lý thuyết mà còn được chứng minh qua thực tiễn. Những phát minh vĩ đại trong lịch sử nhân loại đều bắt nguồn từ các nghiên cứu trong lĩnh vực Toán học, Vật lý, Hóa học và Sinh học. Tuy nhiên, hiện nay, nền kinh tế thị trường lên ngôi khiến sự quan tâm của sinh viên đối với những ngành này có xu hướng giảm, chủ yếu do họ thường chọn các ngành có tính ứng dụng cao, dễ tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp.

Nguyên nhân đầu tiên khiến các ngành khoa học cơ bản mất đi sức hút là nhiều phụ huynh và học sinh không nhận thức được tầm quan trọng và cơ hội nghề nghiệp mà ngành khoa học cơ bản mang lại. Họ thường tập trung vào các ngành "hot" như kinh tế, marketing,… mà không tìm hiểu sâu về giá trị và triển vọng phát triển của các ngành khoa học cơ bản.

Nguyên nhân thứ hai là do chính sách hỗ trợ nhóm ngành khoa học cơ bản chưa đủ hấp dẫn. Dù có một số ngành đã được ưu tiên hỗ trợ nhưng vẫn còn nhiều lĩnh vực khác chưa nhận được sự quan tâm tương xứng. Do đó, việc xem xét áp dụng các chính sách hỗ trợ như miễn học phí, cấp học bổng cho sinh viên xuất sắc trong lĩnh vực khoa học cơ bản là điều cần thiết. Những hỗ trợ này không chỉ giúp sinh viên giảm bớt gánh nặng tài chính mà còn khuyến khích họ theo đuổi đam mê trong lĩnh vực mà xã hội rất cần.

Cùng bàn về vấn đề này, một giảng viên ngành Hóa học của Trường Đại học Đà Lạt nhận định xu hướng nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động hiện có sự thay đổi rõ rệt. Với sự bùng nổ của công nghệ và nền kinh tế số, các ngành nghề liên quan đến công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và kinh doanh đang thu hút lượng lớn sinh viên đăng ký học. Những lĩnh vực này mang lại cơ hội việc làm cao, thu nhập tốt và khả năng phát triển nghề nghiệp nhanh chóng. Trong khi đó, ngành khoa học cơ bản thường bị cho là ít cơ hội việc làm, đặc biệt là những công việc có mức lương cao và khả năng thăng tiến.

Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục và cách thức giảng dạy khoa học cơ bản tại các trường học cũng có thể là yếu tố làm giảm sức hấp dẫn của nhóm ngành này. Phương pháp giảng dạy truyền thống, nặng về lý thuyết và ít thực hành, khiến cho người học không cảm thấy hứng thú. Nhiều sinh viên cảm thấy kiến thức trong các môn học này khô khan và khó áp dụng vào thực tiễn. Nếu người học không nhìn thấy mối liên hệ giữa lý thuyết và những gì họ có thể làm trong tương lai thì việc nhóm ngành này giảm sức hút là điều dễ hiểu.

Hơn nữa, tình trạng thiếu hụt giáo viên có trình độ cao và môi trường học tập không đủ cơ sở vật chất cũng là một trong những nguyên nhân khiến người học mất đi niềm tin vào việc theo đuổi các ngành khoa học cơ bản.

Bởi, để có thể giảng dạy tốt các môn học như Toán, Lý, Hóa, Sinh đòi hỏi giảng viên cần thực sự có năng lực và đam mê với nghề. Tuy nhiên, việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong giáo dục đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dạy và học. Cùng với đó, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm và trang thiết bị học tập cũng khiến cho quá trình học tập và nghiên cứu của sinh viên trở nên khó khăn và kém hiệu quả.

 Cần đầu tư thêm cơ sở vật chất (phòng thí nghiệm, phòng thực hành) phục vụ các ngành khoa học cơ bản. (Ảnh minh họa: VNU)

Cần đầu tư thêm cơ sở vật chất (phòng thí nghiệm, phòng thực hành) phục vụ các ngành khoa học cơ bản. (Ảnh minh họa: VNU)

Cần có chiến lược dài hạn để phát triển ngành khoa học cơ bản, thu hút nhân tài

Để giải quyết xu hướng người học không còn mặn mà với ngành khoa học cơ bản, Giáo sư Vũ Minh Giang cho rằng, xã hội cần thay đổi cách nhìn nhận và Nhà nước nên có sự đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực này.

Đơn cử như Nghị định 116/2020/NĐ-CP của Chính phủ, quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm, trong đó, sinh viên sư phạm được miễn học phí và nhận hỗ trợ 3,63 triệu đồng/tháng đã khiến ngành Sư phạm nhận được sự quan tâm hơn của thí sinh. Do vậy, việc xem xét có thêm những chính sách tương tự để thu hút nhân tài thực sự trong ngành khoa học cơ bản là điều cần thiết.

“Việc phát triển ngành khoa học cơ bản không chỉ đơn giản là phát triển về số lượng người học, mà cần chú trọng về chất lượng giáo dục, chất lượng nghiên cứu. Cần có những biện pháp phát hiện và bồi dưỡng nhân tài từ sớm từ bậc trung học phổ thông. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là sau khi phát hiện được nhân tài, cần có những cơ chế đặc thù để giữ chân họ trong lĩnh vực khoa học cơ bản, thay vì để họ chuyển sang các ngành khác có sức hút từ thị trường lao động.

Trong quá trình này, việc nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của khoa học cơ bản cần được nâng cao. Chúng ta không thể chỉ đánh giá ngành học qua việc nó mang lại bao nhiêu tiền hay bao nhiêu cơ hội việc làm ngay lập tức.

Các ngành Toán, Lý, Hóa, Sinh không chỉ là nền tảng của nhiều lĩnh vực khác như công nghệ thông tin, y học và kỹ thuật mà còn đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề lớn của thế giới như biến đổi khí hậu, an ninh lương thực và năng lượng. Việc thúc đẩy truyền thông về tầm quan trọng của các ngành khoa học cơ bản, cùng với việc tổ chức các cuộc thi khoa học, chương trình học bổng và sự kiện khoa học sẽ góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội về các ngành này.

Do vậy, việc thu hút người học vào các ngành khoa học cơ bản cần có sự quan tâm từ nhiều phía: Chính sách của nhà nước, nhận thức của xã hội và việc tạo ra những cơ hội việc làm, nghiên cứu thực sự hấp dẫn cho những người đam mê và có năng lực trong lĩnh vực này. Chỉ khi đó, khoa học cơ bản mới có thể tiếp tục phát triển và đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước”, Giáo sư Vũ Minh Giang bày tỏ.

Trong khi đó, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hùng Huy cho rằng, việc xây dựng các chương trình hợp tác giữa trường học và doanh nghiệp cũng rất quan trọng. Các cơ sở giáo dục cần tạo ra những cơ hội thực tập, thực hành cho sinh viên tại các doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu để họ có thể trải nghiệm thực tế và nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của ngành khoa học cơ bản trong xã hội. Qua đó, sinh viên sẽ thấy được khả năng áp dụng kiến thức vào thực tiễn, từ đó có thể kích thích sự quan tâm của họ đối với các ngành này.

 Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hùng Huy (đứng thứ 6 từ trái sang) - Trưởng bộ môn Hóa Vô cơ, Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. (Ảnh: Website nhà trường)

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hùng Huy (đứng thứ 6 từ trái sang) - Trưởng bộ môn Hóa Vô cơ, Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. (Ảnh: Website nhà trường)

Ngoài ra, theo thầy Huy cũng cần xem xét đổi mới chương trình giảng dạy. Chương trình cần phải lồng ghép các vấn đề thực tiễn, kết nối giữa lý thuyết và ứng dụng. Sinh viên không chỉ học lý thuyết mà còn cần được tham gia vào các dự án nghiên cứu, các hoạt động trải nghiệm thực tế. Điều này sẽ giúp họ hiểu rằng những gì họ học được có thể áp dụng ra sao trong cuộc sống.

Do đó, có một chiến lược dài hạn để phát triển ngành khoa học cơ bản là nhiệm vụ cấp bách, không chỉ bao gồm các chính sách ngắn hạn mà còn phải có tầm nhìn xa hơn về việc phát triển nguồn nhân lực cho ngành này trong tương lai. Nhà nước cần có kế hoạch để thu hút các nhà khoa học, giáo sư giỏi về giảng dạy và nghiên cứu, từ đó tạo ra môi trường học tập chất lượng cao cho sinh viên.

Trong khi đó, giảng viên ngành Hóa học của Trường Đại học Đà Lạt cho rằng, để thu hút nhân tài quan tâm đối với các ngành khoa học cơ bản, bên cạnh những chính sách hỗ trợ đặc biệt, việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập cũng là điều vô cùng quan trọng. Nhà nước cần có sự đầu tư thích đáng vào các trường đại học, viện nghiên cứu, cũng như các trường phổ thông để đảm bảo học sinh, sinh viên có môi trường học tập tốt nhất. Việc trang bị đầy đủ phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu không chỉ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn kích thích niềm đam mê học tập của sinh viên.

“Nhìn chung, việc các ngành khoa học cơ bản mất đi sức hút là một vấn đề đáng lo ngại nhưng có thể khắc phục được nếu có những giải pháp đúng đắn và kịp thời. Chính sách hỗ trợ của Chính phủ, cải tiến phương pháp giảng dạy, đầu tư cơ sở vật chất và nâng cao nhận thức xã hội là những yếu tố then chốt để đưa các ngành khoa học cơ bản trở lại vị thế vốn có, góp phần vào sự phát triển bền vững của quốc gia”, giảng viên của Trường Đại học Đà Lạt bày tỏ.

Thu Thủy

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/chuyen-gia-hien-ke-phat-trien-cac-nganh-khoa-hoc-co-ban-post245697.gd