Cổ phiếu ngân hàng vẫn 'sáng cửa'?
Theo báo cáo mới đây của SSI Research, chín tháng đầu năm 2025, lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng thương mại trong phạm vi nghiên cứu của tổ chức này(*) đạt 216.400 tỉ đồng (tăng 16,3% so với cùng kỳ). Nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh có mức tăng trưởng nhỉnh hơn (+18%) so với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần (+15%). Một số điểm nhấn chính rất đáng chú ý về tình hình kinh doanh của các ngân hàng cũng đã được đề cập cụ thể.

Cổ phiếu ngân hàng vẫn được đánh giá là nhóm ngành “sáng giá” nếu nhà đầu tư kiên nhẫn tích lũy ở các vùng giá thấp trong các đợt điều chỉnh chung của thị trường. Ảnh: LÊ VŨ
Về tăng trưởng tín dụng, như thường lệ, trong quí 3-2025, nhóm ngân hàng thương mại cổ phần tiếp tục ghi nhận tăng trưởng tín dụng cao hơn so với nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh (+4,5% so với +4%). Tuy nhiên, khoảng cách này đã thu hẹp khi VCB và CTG lấy lại đà tăng trưởng tốt. Các ngân hàng có mức tăng tín dụng cao so với quí trước gồm VPB (+8,3%), TCB (+6,1%), ACB (+5,6%) và MBB (+5,5%).
Ngược lại, HDB ghi nhận mức giảm bất ngờ (-3,3%) do bán khoản nợ trị giá 10.500 tỉ đồng cho Ngân hàng Vikki trong quí 3-2025. Nếu loại trừ giao dịch này, tăng trưởng tín dụng của HDB trong quí 3 chỉ giảm nhẹ 1,3%. Trong số các lĩnh vực cho vay, động lực chính thúc đẩy tăng trưởng tín dụng tập trung ở lĩnh vực bất động sản và xây dựng (+6,84%) và cho vay mua nhà (+6,65%). Cho vay đối với các công ty chứng khoán cũng ghi nhận mức tăng mạnh, đặc biệt tại VPB, MBB và TCB, nhờ diễn biến thuận lợi của thị trường chứng khoán. Trong khi đó, ACB vẫn kiên định với trọng tâm vào các khoản vay vốn lưu động phục vụ sản xuất, hộ kinh doanh và doanh nghiệp FDI - phù hợp với định hướng chiến lược của ngân hàng này.
Về chất lượng tài sản và chi phí tín dụng, tổng số dư nợ xấu (NPL) trong quí 3-2025 tăng nhẹ 1,5% so với quí trước, cho thấy chất lượng tài sản nhìn chung đã ổn định. Tuy nhiên, có sự phân hóa giữa các ngân hàng khi ACB, VIB, VPB, CTG và BID ghi nhận cải thiện, trong khi STB, OCB, MBB và HDB ghi nhận chất lượng tài sản giảm sút. Tổng các khoản nợ nhóm 2 tăng 14,4%, đảo ngược xu hướng giảm của quí trước, với mức tăng đáng kể tại STB, HDB và VPB.
Ngoài ra, nợ nhóm 5 tiếp tục gia tăng tại nhóm ngân hàng thương mại cổ phần - đây là yếu tố cần tiếp tục theo dõi do áp lực trích lập dự phòng sẽ tăng nếu quá trình thu hồi kéo dài quá hai năm. Đáng chú ý, một số ngân hàng có nợ xấu tăng mạnh trong quí như TPB, OCB và HDB chưa có sự gia tăng về chi phí tín dụng tương ứng. Ngược lại, CTG và TCB lại áp dụng cách tiếp cận thận trọng hơn khi tăng mạnh dự phòng rủi ro. Sự khác biệt này khiến tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn hệ thống tăng lên mức 93,7% (so với mức 88% trong quí 2-2025).
Nếu nhìn sang triển vọng năm sau thì hệ số P/B dự phóng năm 2026 của ngành ngân hàng ước tính đạt 1,28x, phản ánh mức định giá hấp dẫn trong bối cảnh lợi nhuận năm 2026 được dự báo tăng trưởng 18% so với cùng kỳ và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 18%. Do vậy, cổ phiếu ngân hàng vẫn được đánh giá là nhóm ngành “sáng giá” nếu nhà đầu tư kiên nhẫn tích lũy ở các vùng giá thấp trong các đợt điều chỉnh chung của thị trường.
Về thanh khoản và xu hướng biên lãi ròng (NIM), trong quí 3-2025, các ngân hàng tiếp tục gia tăng tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR), đồng thời giảm tỷ trọng đầu tư vào trái phiếu ngân hàng, qua đó hỗ trợ duy trì NIM. Thanh khoản hệ thống do đó có một vài thời điểm chịu áp lực cục bộ, thể hiện qua biến động ngắn hạn của lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng. Mặc dù vậy, NIM toàn hệ thống vẫn giảm nhẹ 4 điểm cơ bản xuống còn 3,14% trong quí 3-2025.
Riêng với HDB, NIM giảm chủ yếu do phí cam kết giải ngân và tăng trưởng tín dụng giảm so với quí trước. Ngược lại, STB ghi nhận NIM mở rộng nhờ ghi nhận lại khoản thu nhập lãi liên quan đến Khu công nghiệp Phong Phú, giúp lợi suất tài sản tăng. Nếu loại trừ các yếu tố bất thường nêu trên, NIM cơ bản của các ngân hàng hầu như đi ngang so với quí trước ở mức 3,02%. Từ cuối quí 3-2025, một số ngân hàng ngừng áp dụng lãi suất cố định 2-3 năm cho vay mua nhà cũng như điều chỉnh tăng lãi suất cố định một năm.
Ở chiều huy động, lãi suất tiền gửi tăng 0,2-0,8 điểm phần trăm trên hầu hết kỳ hạn trong tháng 10-2025, trong đó mức tăng cao 0,5-0,8 điểm phần trăm chủ yếu đến từ chương trình khuyến mại ngắn hạn (hai tuần đến một tháng) nhằm thu hút tiền gửi mà không làm ảnh hưởng quá nhiều đến xu hướng về chi phí vốn. Với độ trễ giữa chu kỳ điều chỉnh lãi vay và lãi huy động, NIM của các ngân hàng được kỳ vọng sẽ tương đối ổn định trong quí 4-2025 và có thể phục hồi nhẹ trong năm 2026 khi lợi suất tài sản dần cải thiện.
Đáng chú ý, thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng tăng tốc khá tốt nhờ hoạt động kinh doanh ngoại hối và chứng khoán. Đà tăng mạnh của thị trường chứng khoán khi VN-Index đạt đỉnh lịch sử mới, đã tạo lực đẩy đáng kể cho hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán là công ty con của ngân hàng. Các công ty chứng khoán ghi nhận kết quả kỷ lục trong cho vay margin, ngân hàng đầu tư và đặc biệt là giao dịch tự doanh. Nhờ đó, thu nhập từ chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư của các ngân hàng tăng mạnh, đóng góp vào tăng trưởng thu nhập ngoài lãi toàn ngành.
Với kết quả kinh doanh chín tháng đầu năm 2025 nhìn chung ở mức tích cực như trên, ngành ngân hàng vẫn được đánh giá khả quan trong giai đoạn quí 4-2025 và năm 2026. Có bốn yếu tố chính được kỳ vọng sẽ tiếp tục hỗ trợ đà tăng trưởng lợi nhuận của các ngân hàng bao gồm: tăng trưởng tín dụng duy trì bền vững, chất lượng tài sản cải thiện dần, NIM có dấu hiệu ổn định trở lại, và thu từ nợ xấu đã xóa phục hồi mạnh hơn sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng chính thức có hiệu lực từ ngày 15-10-2025.
Về định giá, theo SSI Research, sau khi đạt đỉnh tại mức 1,84x vào tháng 8-2025, hệ số giá cổ phiếu/giá trị sổ sách của cổ phiếu đó (P/B) trượt trung bình của các ngân hàng đã giảm 16,4% xuống còn 1,53x tính đến ngày 3-11-2025, thấp hơn mức trung bình năm năm là 1,65x. Còn nếu nhìn sang triển vọng năm sau thì hệ số P/B dự phóng năm 2026 của ngành ngân hàng ước tính đạt 1,28x, phản ánh mức định giá hấp dẫn trong bối cảnh lợi nhuận năm 2026 được dự báo tăng trưởng 18% so với cùng kỳ và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 18%. Do vậy, cổ phiếu ngân hàng vẫn được đánh giá là nhóm ngành “sáng giá” nếu nhà đầu tư kiên nhẫn tích lũy ở các vùng giá thấp trong các đợt điều chỉnh chung của thị trường.
(*) Gồm VCB, BID, CTG, ACB, MBB, STB, TCB, VPB, HDB, TPB, VIB, MSB, OCB...
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/co-phieu-ngan-hang-van-sang-cua/














