Công tác dân số góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước

Trải qua hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành, những thành tựu mà công tác dân số đạt được tác động to lớn và tích cực đến tăng trưởng kinh tế, nâng cao bình đẳng giới, tiến bộ xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường; cải thiện chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của từng người dân, từng gia đình, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt và ngày một nâng cao.

Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt và ngày một nâng cao.

Vào ngày 26/12/1961, Thủ tướng Chính phủ ký, ban hành Quyết định số 216/CP có hướng dẫn “Vì sức khỏe của người mẹ, vì hạnh phúc và hòa thuận của gia đình, vì để cho việc nuôi dạy con cái được chu đáo, việc sinh đẻ của nhân dân cần được hướng dẫn một cách thích hợp”. Đây là quyết định quan trọng, đánh dấu cho những bước đi đầu tiên của công tác dân số và hệ thống tổ chức bộ máy cùng cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên cả nước.

Từ việc mỗi phụ nữ Việt Nam trung bình có 6,3 con (năm 1960) đã giảm xuống 3,74 con năm 1992 và 2,09 con năm 2006, việc sinh đẻ mang tính tự nhiên sang việc sinh đẻ mang tính chủ động, có kế hoạch. Kết quả này đã hạn chế việc tăng thêm gần 20 triệu người trong những thập kỷ qua là tiền đề tiến tới ổn định quy mô dân số vào giữa thế kỷ XXI, tăng GDP bình quân đầu người, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo của đất nước.

Công tác dân số trở thành một cuộc vận động, chung sức và cũng là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Với hệ thống các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, cùng với sự nỗ lực, vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự ủng hộ, tham gia của các tầng lớp nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Cụ thể, tỷ suất tử vong mẹ đã giảm sáu lần trong 30 năm qua, từ mức 233/100.000 trẻ đẻ sống năm 1990 xuống còn khoảng 40/100.000 trẻ đẻ sống những năm gần đây. Từ năm 1993, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giảm từ 43,3 xuống 12,1 trên 1.000 trẻ đẻ sống năm 2020. Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023, cao hơn nhiều quốc gia có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.

Việt Nam đã đạt được những thành tựu trong việc bảo đảm tiếp cận với các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Từ năm 1993, tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại đã tăng từ 41,3% lên 70,1% năm 2022. Bên cạnh đó, các dịch vụ tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn; tầm soát, chẩn đoán và điều trị sớm các bệnh, tật trước sinh và sơ sinh được triển khai và từng bước mở rộng. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi từng bước được củng cố và phát triển.

Tốc độ gia tăng dân số nhanh đã được Việt Nam khống chế thành công, tỷ lệ tăng dân số hàng năm giảm từ 1,7% giai đoạn 1989-1999 xuống 1,14% giai đoạn 2009-2019. Việt Nam đạt mức sinh thay thế từ năm 2006 và tổng tỷ suất sinh được duy trì ở mức 2,0-2,1 con/phụ nữ trong suốt thời gian qua.

Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực theo hướng dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh, từ 56,1% năm 1989 lên 67,5% năm 2023. Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, tăng thêm 33,7 tuổi, từ 40 tuổi năm 1960 lên 73,7 tuổi năm 2020 cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.

Việt Nam bước vào thời kỳ “dân số vàng” từ 2007 với lực lượng lao động trẻ, dồi dào và cần được tiếp tục đầu tư cho an sinh xã hội, y tế, giáo dục, việc làm, nâng cao năng suất lao động, hướng tới phát triển bền vững. Dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt và ngày một nâng cao.

Công tác dân số góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Công tác dân số góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia thực hiện thành công Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ vào năm 2015 và tiến tới thực hiện thành công Chương trình nghị sự của Liên hợp quốc về phát triển bền vững đến năm 2030. Những thành tựu của công tác Dân số góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập bình quân đầu người, giảm tình trạng đói nghèo, tăng cơ hội học tập, tăng cường bình đẳng giới, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước; góp phần thực hiện thắng lợi các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ.

Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, công tác dân số trước những thay đổi khác biệt về các vấn đề kinh tế, xã hội cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Nghị quyết 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới đã chỉ rõ những khó khăn, thách thức của công tác dân số hiện nay: Mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể; mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng; chưa có giải pháp đồng bộ phát huy những lợi thế của thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số. Chỉ số phát triển con người (HDI) còn thấp. Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao. Tầm vóc, thế lực của người Việt Nam chậm được cải thiện. Tuổi thọ bình quân tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp so với nhiều nước. Tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn phổ biến ở một số dân tộc ít người. Phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập. Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế.

Trước các vấn đề dân số mới xuất hiện, nếu không được giải quyết kịp thời sẽ gây ra những hệ lụy khó lường cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và cả đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Để thực hiện tốt công tác dân số trong tình hình mới, cũng như để đáp ứng yêu cầu phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng đòi hỏi đòi hỏi phải có những đổi mới để giải quyết toàn diện, đồng bộ và căn bản hơn các vấn đề dân số.

Để hoàn thành các mục tiêu Nghị quyết số 21-NQ/TW của Đảng, Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 cũng như Mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam, Chương trình hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, Phó trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia Dân số và Phát triển, cho biết, sẽ tiếp tục nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác dân số và các yếu tố tác động của dân số đến phát triển bền vững của đất nước, để tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, đặc biệt là các chính sách liên quan đến già hóa dân số, giảm tỷ suất sinh...

Bộ Y tế cũng đề nghị các bộ, ngành thành viên Ban Chỉ đạo Quốc gia, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số; chỉ đạo lồng ghép các yếu tố dân số trong các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, các ngành... Sở Y tế, Chi cục Dân số các tỉnh, thành phố cần tập trung đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động truyền thông, giáo dục về dân số và phát triển.

Đồng thời, tập trung xây dựng dự án Luật Dân số với mục tiêu chuyển trọng tâm chính sách từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, dự kiến trình Chính phủ vào tháng 12/2024 và trình Quốc hội vào tháng 10/2025.

Tháng 12/2024 – Tháng hành động Quốc gia về Dân số với chủ đề “Nâng cao chất lượng dân số để đất nước phồn vinh, gia đình hạnh phúc” nhằm nâng cao trách nhiệm, nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền; các đoàn thể, tổ chức xã hội, nhân dân về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác Dân số đối với sức khỏe, hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình, sự phát triển bền vững của đất nước. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân số trong giai đoạn hiện nay đặt ra cho ngành y tế và chính quyền các địa phương cùng chung tay thực hiện./.

Hà Phương - Trần Đạt

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/media/cong-tac-dan-so-gop-phan-quan-trong-vao-su-phat-trien-cua-dat-nuoc-post14168.html