COP30: Cấp thiết hành động khi sự ổn định khí hậu đã bị phá vỡ

Hội nghị lần thứ 30 Các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP30) được đánh giá là một trong những hội nghị quan trọng nhất và được kỳ vọng nhất trong lịch sử COP khi diễn ra trong bối cảnh sự ổn định khí hậu đã bị phá vỡ.

Hội nghị lần thứ 30 Các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP30) chính thức khai mạc tại TP Belém (Brazil) vào ngày 10-11 với loạt sự kiện quan trọng, quy tụ sự tham gia của hàng trăm nhà lãnh đạo thế giới, các nhà khoa học, các tổ chức phi chính phủ.

Nhân sự kiện này, Báo Pháp Luật TP.HCM đã phỏng vấn một số chuyên gia trong và ngoài nước để làm rõ ý nghĩa đặc biệt của hội nghị năm nay cũng như đề ra những giải pháp cấp bách cho vấn đề khí hậu toàn cầu.

 Các lãnh đạo tham gia hội nghị thượng đỉnh khí hậu trước thềm COP30 ở TP Belém (Brazil) ngày 7-1. Ảnh: AFP

Các lãnh đạo tham gia hội nghị thượng đỉnh khí hậu trước thềm COP30 ở TP Belém (Brazil) ngày 7-1. Ảnh: AFP

Một trong những hội nghị COP quan trọng nhất

. PV: Thưa chuyên gia, trong năm 2025 thế giới chứng kiến hàng loạt hiện tượng thời tiết cực đoan. Những diễn biến này cho thấy điều gì về tốc độ và mức độ tác động thực tế của biến đổi khí hậu hiện nay?

+ TS Phạm Quỳnh Hương (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Khí nhà kính & Biến đổi khí hậu, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQG-HCM): Những sự kiện nắng nóng kỷ lục, bão có cường độ lớn hơn, cháy rừng lan rộng, lũ quét và lũ lụt nghiêm trọng ở nhiều châu lục trong năm 2025 không còn là những hiện tượng bất thường đơn lẻ. Chúng phản ánh ba xu thế rõ ràng.

Thứ nhất, biến đổi khí hậu đang diễn ra nhanh hơn và mạnh hơn so với dự báo. Nhiều mô hình khí hậu của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) từng dự đoán mức độ cực đoan này sẽ phổ biến vào những năm 2030 – 2040. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chúng xuất hiện sớm hơn 5 – 10 năm. Điều đó có nghĩa là sự ổn định khí hậu đã bị phá vỡ, và hệ thống Trái Đất phản ứng mạnh hơn so với dự đoán.

Thứ hai, thiệt hại kinh tế – xã hội đang leo thang và lan rộng. Thiên tai hiện nay không chỉ gây mất mát về người và tài sản, mà còn đe dọa an ninh năng lượng, an ninh lương thực và chuỗi cung ứng, bao gồm gián đoạn nông nghiệp (mất mùa do thiếu nước hay do ngập úng), nhu cầu điện năng tăng đột biến do lưới điện quá tải bởi sóng nhiệt, một số vùng mất khả năng được bảo hiểm rủi ro cháy rừng và lũ.

Thứ ba, khoảng cách giữa cam kết và hành động đang trở thành rủi ro toàn cầu. Dù các quốc gia cam kết phát thải ròng bằng “0”, chấm dứt phá rừng, và chuyển đổi năng lượng tái tạo, nhưng hành động thực tế chưa đạt tốc độ cần thiết. Những hiện tượng thời tiết cực đoan năm 2025 không chỉ là lời cảnh báo, mà là bằng chứng trực tiếp rằng chúng ta đã bước vào giai đoạn “thích ứng bắt buộc”.

. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng khí hậu diễn biến phức tạp như vậy, COP30 có ý nghĩa đặc biệt thế nào, thưa chuyên gia?

+ TS Phạm Quỳnh Hương: COP30 không chỉ là một hội nghị khí hậu thường niên, mà là thời điểm đánh giá lại con đường đã đi sau gần 10 năm Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu và quyết định bước đi mới cho giai đoạn hành động bắt buộc.

Chúng ta đang bước vào thời kỳ mà rủi ro lớn nhất không phải là chưa biết, mà là biết rồi nhưng chưa chuẩn bị. COP30 sẽ là cơ hội để các quốc gia, đặc biệt các nước đang phát triển như Việt Nam, khẳng định tinh thần chủ động: không chỉ kêu gọi hỗ trợ tài chính và công nghệ, mà còn đề xuất mô hình thích ứng quy mô cảnh quan, gắn với nông nghiệp, tài nguyên nước và quản lý vùng ven biển. Nhân loại cần học nhanh hơn để không tự đẩy mình đến giới hạn cuối cùng.

COP30 không còn là nơi để đưa ra lời hứa. Nó là điểm rẽ buộc các quốc gia phải chuyển từ cam kết sang hành động thực chất, đặc biệt trong thích ứng với khí hậu cực đoan ngày càng khốc liệt.

+ GS Carlos Nobre (Đồng Chủ tịch Hội đồng Khoa học vì Amazon, Brazil): Trước những diễn biến của tình hình khí hậu thời gian qua, COP30 được xem là một trong những hội nghị quan trọng nhất trong toàn bộ các hội nghị COP trước nay. Nếu tại COP26 năm 2021 tại Anh, 196 quốc gia cam kết giữ nhiệt độ không vượt quá 1,5°C thì COP30 cần phải đẩy nhanh và mạnh hơn nữa việc cắt giảm khí thải.

 Chuyên gia Anna Aberg thuộc viện Chatham House (Anh)

Chuyên gia Anna Aberg thuộc viện Chatham House (Anh)

+ Bà Anna Aberg (Chuyên gia tại Trung tâm Môi trường và Xã hội thuộc viện Chatham House, Anh): Trong bối cảnh địa chính trị đầy thách thức này, điều quan trọng nhất mà COP30 có thể làm là gửi đi tín hiệu đến phần còn lại của thế giới rằng vẫn còn các chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức muốn hành động để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Song song đó, họ đã và đang hành động. Hội nghị thượng đỉnh các Nhà lãnh đạo, diễn ra ngay trước khi COP30 chính thức khai mạc, đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề này.

Một điều giá trị khác mà COP30 có thể làm là thiết lập các cơ cấu để hỗ trợ việc thực hiện các cam kết đã đưa ra tại các COP trước.

Cấp bách hành động vì khí hậu

. COP30 diễn ra đúng 10 năm sau khi Thỏa thuận Paris được thông qua. Đâu là thành tựu đáng kể nhất và khoảng cách lớn nhất giữa cam kết và hành động trong thập niên qua, thưa các chuyên gia?

+ TS Phạm Quỳnh Hương: Đây là thời điểm để nhìn lại những gì thế giới đã làm được và những gì vẫn còn khoảng cách so với mục tiêu đã đặt ra.

Thành tựu lớn nhất là chuyển đổi năng lượng toàn cầu đã thực sự bắt đầu. Năng lượng mặt trời và gió đã trở thành nguồn điện rẻ nhất ở nhiều quốc gia; công nghệ pin lưu trữ và xe điện phát triển nhanh hơn dự báo; hơn 90% GDP toàn cầu hiện nay là ở các quốc gia đã có mục tiêu phát thải ròng bằng “0” hoặc đang xây dựng lộ trình hướng tới mục tiêu này. Điều này cho thấy cam kết trong Thỏa thuận Paris đã tạo ra hướng đi toàn cầu mới, hình thành một xu thế phát triển tất yếu, không thể đảo ngược.

Khoảng cách lớn nhất chính là tốc độ và quy mô hành động chưa theo kịp biến đổi khí hậu. Tốc độ giảm phát thải vẫn quá chậm so với yêu cầu để giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 1,5°C. Có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là vì chúng ta tiếp tục phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt than trong sản xuất điện. Thứ hai là vì tài chính khí hậu đến chậm và không đủ, khiến các nước đang phát triển khó triển khai chuyển đổi năng lượng và thích ứng.

Nói cách khác, thế giới đã có mục tiêu đúng, nhưng hành động thực tế chưa đủ nhanh và chưa đủ sâu. 10 năm qua, chúng ta đã đi đúng hướng nhưng chưa đi đủ nhanh. COP30 cần đánh dấu bước chuyển từ “cam kết”kết” sang “thực thi bắt buộc”, đặc biệt về tài chính và chuyển đổi năng lượng.

 GS Carlos Nobre - Đồng Chủ tịch Hội đồng Khoa học vì Amazon, Brazil

GS Carlos Nobre - Đồng Chủ tịch Hội đồng Khoa học vì Amazon, Brazil

+ GS Carlos Nobre: Chúng ta đang tồn tại một khoảng cách rất lớn giữa các cam kết và hành động thực tế. Năm 2024 ghi nhận lượng khí thải ở mức cao kỷ lục, đến nay vẫn chưa có dấu hiệu cho thấy lượng phát thải sẽ giảm trong năm 2025.

Trong vài năm qua, thế giới đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng, chuyển sang sử dụng nhiều hơn các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời và điện gió. Chúng ta đang đi đúng hướng, nhưng để tránh rơi vào tình trạng khẩn cấp về khí hậu thì chừng đó vẫn chưa đủ.

Cho đến nay, thế giới vẫn chưa đạt được nhiều kết quả đáng kể. Nhiệt độ toàn cầu đã tăng lên 1,5°C trong nửa cuối năm 2023 và suốt năm 2024, năm 2025 vẫn tiếp tục nóng lên với hàng loạt hiện tượng thời tiết cực đoan lập kỷ lục. Hàng tỉ người trên thế giới vẫn chưa thể thích ứng với những thay đổi khí hậu khắc nghiệt này.

Vì thế, chúng ta cần phải đẩy nhanh hơn nữa việc cắt giảm khí thải, càng sớm càng tốt.

 Một nhà máy nhiệt điện than ở Nam Phi. Ảnh: Waldo Swiegers/Bloomberg

Một nhà máy nhiệt điện than ở Nam Phi. Ảnh: Waldo Swiegers/Bloomberg

. Là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam cần làm gì để có thể hiện thực hóa các cam kết đã đưa ra trong kỳ COP trước đây, thưa các chuyên gia?

+ TS Phạm Quỳnh Hương: Để hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” và các cam kết khí hậu trước đây, Việt Nam cần chuyển từ cam kết chính sách sang triển khai thực tiễn theo 3 nhóm giải pháp trụ cột.

Đầu tiên và quan trọng nhất là chuyển đổi năng lượng. Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo theo cách ổn định và có quy hoạch; Giảm dần phụ thuộc vào than, theo lộ trình thực tế, có tính đến sinh kế và chuyển đổi việc làm ở các địa phương khai thác than; Nâng cấp lưới điện truyền tải để hấp thụ và phân phối điện tái tạo; và khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng và khử carbon trong sản xuất.

Thứ hai là thích ứng với khí hậu cực đoan. Biến đổi khí hậu đang gây thiệt hại rất cụ thể ở Việt Nam là xâm nhập mặn Đồng bằng sông Cửu Long, mưa cực đoan miền Trung, bão mạnh hơn trên biển Đông.

Do đó Việt Nam cần lồng ghép biến đổi khí hậu vào quy hoạch đô thị, hạ tầng và sử dụng đất; tăng cường giải pháp dựa vào Thiên nhiên (Nature-based Solutions): phục hồi rừng ngập mặn, trồng rừng phòng hộ, bảo vệ dòng chảy sông và hệ sinh thái ven biển; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và giám sát khí hậu liên vùng để giảm rủi ro và tổn thất.

Thứ ba là tài chính khí hậu. Việt Nam cần huy động được cả nguồn lực trong nước lẫn quốc tế bằng cách thu hút đầu tư tư nhân vào chuyển đổi năng lượng và cơ sở hạ tầng xanh, tận dụng các sáng kiến quốc tế và xây dựng cơ chế đo đạc, báo cáo và thẩm định phát thải (MRV) minh bạch, giúp tăng niềm tin và thu hút tài chính quốc tế.

+ GS Carlos Nobre: Trong những năm qua, các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã bắt đầu đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng, hướng tới việc sử dụng nhiều hơn các nguồn năng lượng tái tạo. Đây là hướng đi đúng đắn và cần tiếp tục được mở rộng.

Tuy nhiên, nếu thế giới không cắt giảm lượng phát thải một cách nhanh chóng và quyết liệt hơn nữa, nhân loại sẽ phải đối mặt nguy cơ nhiệt độ toàn cầu tăng vượt 2°C, thậm chí có thể lên tới 2,5°C vào năm 2050.

Vì vậy, Việt Nam, cũng như các quốc gia khác, cần đẩy nhanh hơn nữa quá trình giảm phát thải, nhất là trong các ngành năng lượng, giao thông và công nghiệp. Đồng thời, Việt Nam cần tăng cường hợp tác quốc tế, tiếp cận tốt hơn các nguồn vốn từ Quỹ Khí hậu Xanh để hỗ trợ chuyển đổi năng lượng và nâng cao khả năng thích ứng của người dân trước tác động của biến đổi khí hậu.

. Xin cảm ơn các chuyên gia.

Brazil và COP30

Trước thềm COP30, có thông tin rằng Brazil đã phê duyệt khai thác dầu tại khu vực cửa sông Amazon.

Về vấn đề này, GS Carlos Nobre nói rằng quyết định mà cơ quan môi trường Brazil phê duyệt cho công ty dầu khí quốc gia Petrobras không phải là cho phép khai thác, mà chỉ là cho phép khảo sát khu vực cửa sông Amazon, dọc theo bờ biển, để xem liệu có trữ lượng dầu nằm sâu dưới đáy đại dương hay không.

Tuy nhiên, GS Nobre lưu ý rằng nếu công ty dầu khí tìm thấy nguồn dầu lớn dưới đó, họ sẽ muốn khai thác và điều này có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng.

Trong bối cảnh này, GS Nobre hy vọng rằng ngay tại COP30, tất cả các quốc gia, trong đó có Brazil, vẫn sẽ đạt được thỏa thuận cắt giảm phát thải nhanh và mạnh mẽ hơn nữa.

Vị GS đề cập một dữ liệu đáng lo ngại rằng, ngay cả khi nhân loại chỉ sử dụng lượng than đá, dầu mỏ và khí đốt hiện đang được khai thác, mà không mở thêm mỏ mới, thì đến năm 2050 lượng phát thải vẫn có thể lên tới 19 tỉ tấn CO₂.

“Vì vậy, COP30 và tất cả các quốc gia phải thống nhất ngừng mọi hoạt động thăm dò mới đối với nhiên liệu hóa thạch dù là than, dầu hay khí đốt. Bất kỳ hoạt động thăm dò mới nào cũng không còn hợp lý trong bối cảnh hiện nay” - theo GS.

“Đây sẽ là thách thức lớn không chỉ với COP30, mà còn với chính Brazil” - GS Nobre bổ sung.

HỒNG SƠN - THẢO VY

Nguồn PLO: https://plo.vn/cop30-cap-thiet-hanh-dong-khi-su-on-dinh-khi-hau-da-bi-pha-vo-post879715.html