Đất khỏe - nền tảng để nông nghiệp ĐBSCL phát triển bền vững
Đất trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang suy giảm chất lượng do thâm canh kéo dài, biến đổi khí hậu và sử dụng phân bón quá mức. Các chuyên gia đã chỉ ra nhiều rủi ro như thoái hóa dinh dưỡng, giảm pH đất, tích tụ kim loại nặng và nguy cơ mất an toàn nông sản...
Vùng ĐBSCL có hơn 4 triệu ha đất với bốn nhóm đất chủ đạo gồm đất phù sa, đất phèn, đất mặn và nhóm đất khác như đất xám bạc màu, đất than bùn và giồng cát. Mỗi nhóm đất mang đặc điểm lý hóa sinh học riêng biệt và tạo nên sự đa dạng, phong phú trong hệ thống canh tác của vùng. Tuy nhiên, độ phì nhiêu đất đang suy giảm nhanh, trở thành thách thức lớn của sản xuất nông nghiệp tại ĐBSCL vùng trọng điểm lúa gạo và cây ăn trái của cả nước. Thâm canh 3 vụ lúa kéo dài, mất phù sa do hệ thống đê bao khép kín, lạm dụng phân vô cơ, khai thác đất mặt để san lấp cùng tác động của biến đổi khí hậu đang khiến chất lượng đất suy thoái rõ rệt.
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) và nhiều đánh giá quốc tế, hầu hết dạng suy thoái thường gặp ở vùng nhiệt đới như xói mòn, nghèo dinh dưỡng, mặn hóa, phèn hóa và suy thoái sinh học đều đang hiện hữu tại ĐBSCL. Cốt lõi của quá trình này là sự sụt giảm chất hữu cơ, giảm hoạt động vi sinh vật, đồng thời gia tăng các hợp chất khó phân hủy và biến đổi bất lợi trong tính chất lý hóa của đất. Hệ quả là khả năng cung cấp dinh dưỡng suy giảm, đe dọa tính bền vững của hệ thống canh tác trong vùng ĐBSCL.

Các giải pháp phục hồi đất trồng trọt sẽ góp phần giảm chi phí đầu vào
TS Nguyễn Quang Hải, Phó Viện trưởng Viện Thổ nhưỡng Nông hóa cho biết, nguyên nhân suy thoái chất lượng đất gồm biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, khô hạn, ngập úng, bão lũ cực đoan. Thâm canh và giống năng suất cao lấy đi lượng lớn dinh dưỡng khỏi đất. Lạm dụng phân bón, lượng phân bón/ha đã tăng hơn 10 lần từ 1961 đến nay. Việt Nam nằm trong nhóm 20 quốc gia bón phân nhiều nhất thế giới. Tại ĐBSCL sử dụng đạm ở mức trung bình, lân và kali ở mức cao trong cả ba vụ. Suy giảm nguồn phù sa do các đập thủy điện trên dòng chính Mekong làm lượng phù sa về đồng bằng giảm.
TS Nguyễn Quang Hải cho rằng để giải pháp hiện nay là xây dựng cơ sở dữ liệu chất lượng đất trồng lúa cho toàn vùng. Xây dựng thang đánh giá sức khỏe đất, phù hợp từng loại đất và từng cây trồng. Thiết lập mạng lưới quan trắc định kỳ; nghiên cứu đầy đủ vai trò trung vi lượng để tránh suy giảm dài hạn. Phát triển bộ công cụ chẩn đoán đất ngoài đồng, hệ thống “bác sĩ đất”.

Độ phì nhiêu đất đang suy giảm nhanh, trở thành thách thức lớn của sản xuất nông nghiệp tại ĐBSCL
Đối với từng loại đất, các biện pháp cụ thể gồm: đất mặn tập trung phục hồi kali, tăng hữu cơ và áp dụng tưới tiêu hợp lý; đất phèn duy trì thau chua rửa phèn, bổ sung kali và silic; đất phù sa cân đối đạm lân và quản lý phân bón theo nhu cầu; đất xám bạc màu bổ sung kali, silic, vi lượng, tăng hữu cơ và giảm xói mòn.
"Xây dựng mang lưới quan trắc diễn biến chất lượng đất lúa, theo Nghị định 112 thì cũng đã được nhà nước hỗ trợ cho các tỉnh thì mỗi diện tích trồng lúa được bao nhiêu kinh phí đấy, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng kinh phí đấy để 5 năm một lần để quan trắc và bổ sung cơ sở dữ liệu vào hệ thống chúng ta. Nghiên cứu ảnh hưởng của nguyên tố trung và vi lượng, ngoài cái việc nguyên tố đa lượng chúng ta cung cấp rất đầy đủ, chính vì thế cây lấy đi một lượng khá lớn trung vi lượng trong đất mà chúng ta nhiều khi không kiểm soát được, việc nghiên cứu các yếu tố này rất là quan trọng"- TS Nguyễn Quang Hải thông tin.
Nhấn mạnh vấn đề giảm thiểu hấp thụ Cadimi từ đất vào nông sản, Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Ngọc Hưng, Đại học Cần Thơ cho biết, Cadimi là kim loại nặng được thế giới đặc biệt quan tâm do nguy cơ tích tụ trong đất, đi vào nông sản và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Ở Việt Nam, vấn đề này chỉ thực sự được chú ý trong thời gian gần đây, nhất là khi mặt hàng sầu riêng bị kiểm soát chặt về chỉ tiêu cadimi.
GS, TS Ngô Ngọc Hưng cho biết, Việt Nam hiện có hơn 150.000 ha sầu riêng, gấp đôi so với quy hoạch ban đầu, khiến nhu cầu phân bón tăng mạnh. Trong khi đó, một số loại phân lại có hàm lượng cadimi cao hơn phân lân thông thường gấp 3 lần, nếu dùng kéo dài có thể làm tăng nguy cơ tích tụ cadimi trong đất.
Theo các nghiên cứu tại ĐBSCL cho thấy hàm lượng cadimi trong đất rất thấp, thường chỉ bằng 1/10 ngưỡng giới hạn. Đặc biệt, nồng độ cadimi trong đất không phải lúc nào cũng tương quan trực tiếp với nồng độ cadimi trong nông sản.

Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao và phát thải thấp đang được triển khai tại vùng ĐBSCL
GS, TS Ngô Ngọc Hưng cho rằng, giải pháp hiện nay là ưu tiên dùng phân lân từ nguồn apatit trong nước vì hàm lượng cadimi thấp. Hạn chế nhập khẩu phân DAP có hàm lượng cadimi cao. Tăng bón hữu cơ để “cố định” cadimi, giảm khả năng hòa tan. Điều chỉnh pH đất (tăng pH giúp cadimi khó hấp thu hơn). Bón phân cân đối để giảm nhu cầu sử dụng lân quá mức. Ứng dụng thực vật và vi sinh xử lý đất ô nhiễm và lựa chọn cây trồng ít tích lũy cadimi.
"Sử dụng thực vật hút kim loại nặng có nhiều dạng cây trồng, có dạng hút trực tiếp Ion của cadimi vao trong rễ và đưa lên bộ phận thân và người ta thu hoạch thân đó để tìm cách lấy ra trong đất. Dạng thứ hai làm bất động cadimi bị cố định lại và nó không hòa tan ra thì vô hại cây trồng. Dạng thứ ba là một loại vi sinh vật mà nó tiết ra những chất làm kích thích phát triển của cây trồng" - GS, TS Ngô Ngọc Hưng nêu rõ.
Bà Huỳnh Kim Định, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, sức khỏe đất không chỉ là vấn đề kỹ thuật hay riêng của ngành nông nghiệp, mà tác động sâu rộng đến kinh tế xã hội và môi trường. Các giải pháp phục hồi đất trồng trọt sẽ góp phần giảm chi phí đầu vào, nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, cải thiện độ bền của hệ sinh thái cây trồng, giảm phát thải khí nhà kính, mở ra cơ hội liên kết tiêu thụ và đáp ứng các tiêu chuẩn thị trường, hướng tới nền nông nghiệp xanh và bền vững.
Theo bà Huỳnh Kim Định, vai trò của hệ thống khuyến nông, các tổ chức chức năng và cộng đồng vô cùng quan trọng trong lan tỏa, chuyển giao kỹ thuật và đồng hành cùng nông dân trên đồng ruộng. Đây chính là lực lượng chủ lực đưa các giải pháp từ nghiên cứu vào thực tiễn, giúp nâng cao năng suất chất lượng cây trồng, thúc đẩy nông nghiệp bền vững và kinh tế tuần hoàn tại vùng ĐBSCL.
"Đất không phải là vật liệu sản xuất thông thường mà là khởi nguồn của sự sống, sức khỏe đất không chỉ là vấn đề kỹ thuật, không là vấn đề riêng lẻ mà tác động sâu rộng đến kinh tế xã hội và môi trường. Các giải pháp phục hồi đất trồng trọt sẽ giảm chi phí đầu vào, nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, cải thiện độ bền của hệ sinh thái cây trồng, giảm phát thải khí nhà kính"- bà Huỳnh Kim Định nói.
Phục hồi sức khỏe đất là nhiệm vụ cấp bách với các địa phương vùng ĐBSCL để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, giảm phát thải khí nhà kính và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Đây cũng là trọng tâm của chiến lược nông nghiệp xanh và kinh tế tuần hoàn mà ngành nông nghiệp Việt Nam đang hướng tới.












