Đầu tư 580.133 tỷ đồng hiện đại hóa giáo dục: Đã tính toán kỹ kinh phí, đảm bảo khả thi
Chính phủ đề xuất đầu tư hơn 580.000 tỷ đồng hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035. Phó thủ tướng Lê Thành Long khẳng định Chính phủ đã tính toán rất kỹ chi phí, đảm bảo khả thi.

Phó thủ tướng Lê Thành Long.
Tiếp tục ngày làm việc thứ 33, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, chiều 02/12, Quốc hội thảo luận về chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035. Đảm bảo nguồn kinh phí thực hiện chương trình lên tới hơn 580.000 tỷ đồng là một trong những vấn đề được đông đảo đại biểu quan tâm nhất.
Tiếp thu, giải trình ý kiến đại biểu trong phiên thảo luận chiều nay, Phó thủ tướng Lê Thành Long cho biết, tổng kinh phí 580.000 tỷ đồng nếu chia đều cho 54.000 cơ sở giáo dục, 1,6 triệu giáo viên, khoảng 25 triệu người học thì con số là không đáng kể. Tuy nhiên, số kinh phí này được chia theo giai đoạn. Trong đó, vốn đầu tư công từ ngân sách trung ương và địa phương là khoảng 175.000 tỷ (tính số tròn), giai đoạn sau lớn hơn giai đoạn đầu. Cụ thể, giai đoạn 2026 - 2030, cơ cấu vốn dự kiến là: Ngân sách trung ương 100.000 tỷ đồng, ngân sách địa phương 45.000 tỷ đồng, vốn đối ứng của các trường khoảng 20.000 tỷ đồng, nguồn vốn xã hội hóa khoảng 9.000 tỷ đồng.
Về vốn ngân sách trung ương, Bộ Tài chính đã có văn bản khẳng định thẩm định theo đúng quy định của pháp luật đầu tư công. Bộ Tài chính cũng đã tổng hợp tổng số các Chương trình mục tiêu quốc gia cho giai đoạn này để tránh chồng lấn).
Về vốn đối ứng của các địa phương, trên cơ sở tính toán của Bộ Tài chính, Chính phủ đề xuất nguyên tắc là địa phương vẫn phải chịu khoản đầu tư cơ sở vật chất tại địa phương mình. Đối với những địa phương chưa cân đối được nguồn ngân sách, Trung ương sẽ phải hỗ trợ cho các khoản chi thường xuyên (chi sách giáo khoa, chi nâng cao năng lực, và chi cho một số hoạt động, mô hình cụ thể như STEM, ngôn ngữ tiếng Anh...).
Về vốn đối ứng của các trường đại học, Bộ Giáo dục Đào tạo đã gửi công văn và đã có 9 trường đăng ký đóng góp, đơn cử Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM...
Về nguồn xã hội hóa, Phó thủ tướng hy vọng cũng sẽ huy động được thông qua hình thức hợp tác, liên kết, khai thác sản phẩm trí tuệ của các trường với doanh nghiệp.
"Cơ bản là Chính phủ đã tính toán tương đối kỹ về kinh phí để đảm bảo tính khả thi", Phó thủ tướng khẳng định.
Ngoài vấn đề kinh phí của Chương trình, phát biểu tại hội trường chiều nay, các đại biểu cũng kỳ vọng sớm có bộ sách giáo khoa chuẩn cho toàn quốc. Đại biểu Nguyễn Anh Trí (đoàn TP. Hà Nội) nhấn mạnh, phải có một bộ sách giáo khoa chuẩn để thực hiện thành công tinh thần Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về việc học sinh học bằng một bộ sách giáo khoa thống nhất trong toàn quốc.
Với kinh nghiệm hơn 40 năm tham gia đào tạo, hướng dẫn hàng chục thạc sĩ và tiến sĩ, đại biểu Nguyễn Anh Trí khẳng định sách giáo khoa đối với học sinh phổ thông là yếu tố then chốt, cần được đầu tư bài bản, không thể chấp nhận sự chắp vá, vay mượn hay tạm bợ.
Theo ông, một bộ sách chuẩn phải đảm bảo tính hiện đại, cập nhật, không có lỗi, đồng thời phải thấm đẫm văn hóa và đạo đức người Việt. Do đó, việc soạn thảo bộ sách này cần được đưa vào chương trình mục tiêu quốc gia với sự tham gia của một ban soạn thảo gồm những chuyên gia giỏi và trách nhiệm.
Trong khi đó, đại biểu Trần Khánh Thu (đoàn Hưng Yên) lại băn khoăn về mục tiêu của chương trình là đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trong hệ thống giáo dục quốc dân. Cụ thể, dự thảo đưa mục tiêu năm 2030 phấn đấu 30% cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có thiết bị để triển khai thực hiện dạy và học bằng tiếng Anh; năm 2035 có 100% các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông đạt chuẩn về cơ sở vật chất; các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có thiết bị dạy học để triển khai thực hiện dạy và học bằng tiếng Anh, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.
Dẫn số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đang thiếu khoảng 4.000 giáo viên tiếng Anh tại các cấp học phổ thông, chưa kể năng lực của đội ngũ cũng là một vấn đề và yếu tố vùng miền, đại biểu lo ngại mục tiêu trên sẽ rất thách thức với các khu vực miền núi. Do vậy, đại biểu đề nghị cần có lộ trình cụ thể để triển khai nội dung này. Đại biểu cũng kiến nghị cần có chính sách đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kết nối lớp học trực tuyến, sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) hỗ trợ để bù đắp thiếu giáo viên; xây dựng trung tâm tiếng Anh vùng khó khăn theo mô hình liên xã.
Về giáo dục đại học, đại biểu tán thành với mục tiêu của dự thảo là đến năm 2030 có 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á và 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, hình thành 10 trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm.
Tuy vậy, đại biểu đề nghị ngành Giáo dục và Đào tạo đưa ra giải pháp đột phá để thực hiện và Ban soạn thảo chương trình xem xét lại mục tiêu đặt ra, đặc biệt khung chuẩn nào để lượng giá; để từ đó có sự đầu tư nguồn lực cho phù hợp. Đặc biệt, một thách thức lớn đặt ra với chúng ta là làm sao để thứ hạng này phải phản ánh đúng thực chất, không rơi vào “bẫy” thành tích.
Cũng liên quan tới giáo dục đại học, đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) đặt câu hỏi: "Tại sao con em người Việt phải tốn kém ngoại tệ để sang Singapore, Anh, Mỹ... du học, trong khi chúng ta hoàn toàn có khả năng xây dựng cơ sở vật chất và thuê giảng viên nước ngoài về giảng dạy?" và đề xuất xây dựng trường đại học đạt chuẩn quốc tế ngay tại Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho sinh viên được học tập trong môi trường giáo dục đẳng cấp ngay trong nước.













