Đầu tư vào giáo viên sẽ mang lại lợi ích kép

Để thực hiện các mục tiêu được Chương trình hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đưa ra, nhất là đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ giảng dạy thứ hai, các đại biểu Quốc hội đề nghị, cần chú ý các điều kiện bảo đảm để tránh 'thiết bị đi trước - con người theo sau' hoặc ngược lại, nhất là cần thiết kế hệ thống chính sách để phát triển đội ngũ giáo viên.

Bảo đảm tính toàn diện, không còn khoảng trống về đầu tư

Thảo luận về Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 – 2035, ĐBQH Bế Minh Đức (Cao Bằng) nhận thấy, tại điểm b, khoản 1, Điều 1 đặt mục tiêu đến năm 2035 các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện dạy và học đưa tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Để bảo đảm tính toàn diện và không còn khoảng trống về đầu tư, đại biểu đề nghị nghiên cứu, sử dụng định lượng rõ ràng, phù hợp với mục tiêu “100% cơ sở giáo dục đạt chuẩn về cơ sở vật chất”, để khẳng định cam kết về sự đồng bộ và công bằng.

ĐBQH Bế Minh Đức (Cao Bằng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

ĐBQH Bế Minh Đức (Cao Bằng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

Bên cạnh đó, đại biểu Bế Minh Đức nhấn mạnh, cần có chính sách đột phá cho nhà giáo vùng dân tộc thiểu số; đổi mới cơ chế thu hút nhà giáo về công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

Thực tế đã cho thấy, vấn đề cốt lõi của giáo dục vùng dân tộc thiểu số là chảy máu chất xám và thiếu giáo viên cắm bản có năng lực. Nhưng, theo đại biểu phân tích, tại mục 1, điểm b, khoản 1, Điều 1 của dự thảo mới đặt ra mục tiêu cụ thể về hoàn thiện cơ sở vật chất đến năm 2030, chưa có mục tiêu cụ thể về giáo viên thực hiện Chương trình, chỉ quy định “từng bước bảo đảm”.

Đại biểu đề nghị phải xác định mục tiêu cụ thể và xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù, giải pháp căn cơ nhằm bảo đảm về nguồn nhân lực là giáo viên cho mục tiêu lâu dài trong Chương trình.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Để thực hiện đạt các mục tiêu đề ra, đại biểu cho rằng cần có cơ chế và giải pháp về biên chế đội ngũ giáo viên phải được bố trí đủ ở mọi cấp học, mọi lớp học, kể cả vùng sâu, vùng xa ngay từ giai đoạn đầu triển khai Chương trình. Bởi, thực tế ở tỉnh Cao Bằng cho thấy, năm học 2025 - 2026, tỉnh cần 14.031 viên chức, trong khi biên chế được giao chỉ 11.825 người, thiếu 2.206 viên chức so với định mức. “Chúng ta đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để xây dựng trường lớp, nhưng nếu không có đủ giáo viên đứng lớp, đội ngũ giáo viên không tiếp cận đủ thông tin, kiến thức, thì mọi khoản đầu tư vật chất đều không thể phát huy hiệu quả”, đại biểu nhấn mạnh.

Thực tế, tại 5 dự án thành phần của Chương trình, phần phân bổ kinh phí cho nội dung này đều có phần khiêm tốn, đại biểu đề nghị nghiên cứu có ưu tiên thỏa đáng đầu tư cho đào tạo đội ngũ giáo viên, bảo đảm đủ về số lượng, được nâng tầm về chất lượng, thích ứng với nhiệm vụ giáo dục, đào tạo trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

“Đầu tư vào giáo viên là đầu tư mang lại lợi ích kép, vừa nâng cao chất lượng giáo dục, vừa bảo đảm công bằng xã hội. Nếu dự thảo Nghị quyết này thực sự đi tiên phong trong việc kiến tạo một chính sách đãi ngộ giáo viên vùng dân tộc thiểu số mang tính đột phá, chúng ta sẽ tạo ra một cú hích lịch sử, tháo gỡ vướng mắc lớn nhất bấy lâu nay, mang lại cơ hội phát triển thật sự cho vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số”, đại biểu Bế Minh Đức nhấn mạnh.

Để thực hiện mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, ĐBQH Hà Ánh Phượng (Phú Thọ) lưu ý cần chú ý đến các điều kiện bảo đảm để tránh “thiết bị đi trước - con người theo sau” hoặc ngược lại.

Đại biểu cũng nhấn mạnh, “dạy tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ 2 trong trường học” không giống với dạy “tiếng Anh như một ngoại ngữ”. Việc đầu tư cơ sở vật chất ở các cấp học phụ thuộc rất nhiều về sự khác biệt này. Do vậy cần ưu tiên triển khai theo lộ trình phân tầng và bảo đảm công bằng vùng miền.

Theo đại biểu Hà Ánh Phượng, khoảng cách không chỉ là thiết bị, mà còn là số lượng và chất lượng giáo viên, chương trình học, mức độ dạy học đưa tiếng Anh như ngôn ngữ trong trường học sẽ khác nhau ở các vùng miền và giữa các cấp học khác nhau. Thực tế, Quyết định số 2371/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định với phạm vi và lộ trình riêng.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng

Ngoài ra, cũng cần phân bổ hợp lý nguồn lực cho việc bồi dưỡng, thu hút đội ngũ giáo viên tiếng Anh đủ về số lượng và chất lượng, phù hợp với từng khu vực, đẩy mạnh cơ chế phân cấp, phân quyền, giao quyền chủ động cho địa phương, các cơ sở giáo dục được tự quyết định và chịu trách nhiệm trong việc đầu tư cơ sở vật chất, tránh tình trạng việc mua sắm thiết bị không phù hợp với nhu cầu, nhanh lạc hậu, xuống cấp.

Từ những lý do nêu trên, đại biểu đề nghị sửa quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 1 của thành “đến năm 2035, 100% cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông đạt điều kiện dạy tiếng Anh chất lượng chuẩn quốc gia; trong đó tỷ lệ cơ sở triển khai mô hình tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai bảo đảm phù hợp điều kiện địa bàn và mục tiêu công bằng giáo dục”.

Cần giữ giáo viên bằng cơ hội phát triển, không chỉ bằng phụ cấp

Cũng quan tâm đến nội dung này, ĐBQH Nguyễn Hoàng Bảo Trân (TP. Hồ Chí Minh) chỉ rõ, trong hơn 20 năm qua, chúng ta đã áp dụng nhiều mô hình luân chuyển, thu hút giáo viên về vùng khó khăn. Đây là chính sách đúng, đã góp phần bổ sung nhân lực cho các điểm trường xa xôi. Tuy nhiên, số lượng giáo viên sẵn sàng gắn bó lâu dài chưa nhiều, và hiệu quả của chính sách luân chuyển truyền thống có dấu hiệu giảm dần.

ĐBQH Nguyễn Hoàng Bảo Trân (TP. Hồ Chí Minh) phát biểu. Ảnh: Quang Khánh

ĐBQH Nguyễn Hoàng Bảo Trân (TP. Hồ Chí Minh) phát biểu. Ảnh: Quang Khánh

“Thực tế cho thấy giáo viên không chỉ cần phụ cấp, mà cần một con đường phát triển nghề nghiệp rõ ràng, một môi trường làm việc an toàn, ổn định, công bằng, được hỗ trợ về chuyên môn và được ghi nhận xứng đáng”. Nhấn mạnh vấn đề này, đại biểu đề xuất nhóm giải pháp mang tính hệ thống, có thể tích hợp ngay trong Chương trình.

Theo đó, thay vì yêu cầu luân chuyển cứng như nghĩa vụ, cần thiết kế một lộ trình nghề nghiệp ba bước cho giáo viên trẻ gồm: học tập chuyên môn sâu, được bồi dưỡng chuẩn quốc tế; trải nghiệm địa bàn khó từ 1 - 2 năm, nhưng đi kèm quyền lợi: ưu tiên thi giáo viên giỏi, ưu tiên xét nâng hạng; cống hiến lâu dài ở đơn vị phù hợp với năng lực.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Đồng thời, xây dựng đội ngũ “giáo viên nòng cốt lưu động” – bao gồm những giáo viên giỏi để thực hiện chi viện cho trường thiếu giáo viên, hỗ trợ chuyên môn cho giáo viên trẻ, tổ chức sinh hoạt chuyên môn vùng, triển khai phương pháp dạy học mới. “Nhóm giáo viên này hoạt động theo chu kỳ 3 - 6 tháng, nhưng giữ nguyên quyền lợi và vị trí tại trường gốc. Điều này giúp vùng khó có ngay giáo viên giỏi, không phụ thuộc chỉ tiêu biên chế”, đại biểu nêu rõ.

Theo đại biểu, cần thực hiện số hóa hồ sơ năng lực giáo viên – minh bạch và công bằng, vì nhiều giáo viên phản ánh nỗ lực của họ chưa được ghi nhận đầy đủ, đánh giá còn mang tính thủ công. Điều này đòi hỏi cần bổ sung vào Chương trình nội dung đầu tư hệ thống “hồ sơ năng lực giáo viên số”, ghi đầy đủ quá trình công tác, kết quả đánh giá hằng năm, chuyên đề tự bồi dưỡng, sản phẩm đổi mới phương pháp dạy học, đóng góp với cộng đồng. Theo đại biểu, đi kèm là hệ thống đánh giá năng lực công khai, dựa trên dữ liệu thực. Khi đó, giáo viên giỏi thực sự sẽ được nhìn nhận đúng, được đề bạt, được giao nhiệm vụ.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Đặc biệt, đại biểu đề nghị, cần có những chính sách hỗ trợ đặc thù để bảo đảm giữ người bằng cơ hội, không chỉ bằng phụ cấp; đồng thời, đề xuất 3 nhóm hỗ trợ trọng tâm về nhà ở, học bổng cho con em giáo viên và học bổng phát triển nghề nghiệp cho giáo viên vùng khó. Trong đó, đại biểu cho rằng, cần đầu tư nhà công vụ đạt chuẩn, không sang trọng nhưng an toàn và đủ tiện nghi cơ bản cho giáo viên ở miền núi, vùng cao và hải đảo. Triển khai mô hình “trường vệ tinh – trường trung tâm”; hình thành Quỹ phát triển nhân lực giáo dục để huy động cả Nhà nước và doanh nghiệp.

Đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân nhấn mạnh, Chương trình mục tiêu quốc gia lần này chính là cơ hội để chúng ta giải quyết những vấn đề còn vướng mắc, đang được Nhân dân đặc biệt quan tâm. Nếu được thiết kế đúng, triển khai quyết liệt, chương trình sẽ tạo ra sự thay đổi rất rõ: mở rộng cơ hội học tập cho mọi trẻ em, tạo môi trường an toàn – phát triển cho giáo viên, và góp phần thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa các nhóm đối tượng.

Thanh Hải

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/dau-tu-vao-giao-vien-se-mang-lai-loi-ich-kep-10397922.html