ĐBQH băn khoăn về mục tiêu đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học
Đại biểu Quốc hội cho rằng, chỉ tiêu 30% cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông được trang bị thiết bị để triển khai dạy và học tiếng Anh vào năm 2030 có thể khả thi ở các tỉnh, thành phố lớn, nhưng sẽ là thách thức lớn với khu vực miền núi và những nơi có điều kiện cơ sở vật chất chưa đồng bộ.
Chiều 2/12, Quốc hội thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các tỉnh miền núi
Chương trình đặt mục tiêu đến năm 2030 có ít nhất 30% cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông được trang bị thiết bị để triển khai dạy và học tiếng Anh từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Theo đại biểu Trần Khánh Thu (Hưng Yên), đây là một định hướng lớn, thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng.
Tuy nhiên, đại biểu băn khoăn về tính khả thi của mục tiêu này, bởi hiện còn vướng mắc về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. Sự chênh lệch cơ sở vật chất giữa các vùng miền vẫn lớn. Nhiều trường phổ thông chưa đạt chuẩn thiết bị công nghệ phục vụ học ngoại ngữ. Nhiều điểm trường lẻ ở vùng dân tộc còn chưa có phòng học kiên cố.

ĐBQH Trần Khánh Thu. Ảnh: Quốc hội
Vì vậy, chỉ tiêu 30% cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông được trang bị thiết bị để triển khai dạy và học tiếng Anh vào năm 2030 có thể khả thi ở các tỉnh, thành phố lớn, nhưng sẽ là thách thức lớn với khu vực miền núi và những nơi có điều kiện cơ sở vật chất chưa đồng bộ.
Tình trạng thiếu giáo viên tiếng Anh đạt chuẩn cũng là điểm nghẽn lớn. Khi thiết bị được đầu tư, liệu có đủ giáo viên đạt chuẩn để sử dụng thiết bị hay không?
Do vậy, đại biểu đề nghị cần có lộ trình cụ thể để thực hiện các nội dung này, nhất là tại các tỉnh miền núi và khu vực khó khăn. Cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các tỉnh miền núi, như hỗ trợ xây dựng phòng ngoại ngữ chuẩn.
Đồng thời, cần có chính sách đủ mạnh để thu hút giáo viên tiếng Anh chất lượng, như tăng phụ cấp thu hút lên 70-100% lương cơ bản cho giáo viên về vùng khó khăn, hỗ trợ nhà ở kèm cam kết hợp đồng dài hạn.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kết nối lớp học trực tuyến, sử dụng trí tuệ nhân tạo để bù đắp thiếu giáo viên, xây dựng trung tâm tiếng Anh ở các vùng khó khăn theo mô hình liên xã.

ĐBQH Nguyễn Thị Lan Anh. Ảnh: Quốc hội
Cùng bàn về nội dung này, đại biểu Nguyễn Thị Lan Anh (đoàn Lào Cai) kiến nghị cơ quan soạn thảo bổ sung nội dung Nhà nước ưu tiên nguồn lực hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh cho các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các địa phương đặc biệt khó khăn.
Nữ đại biểu mong muốn khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế phối hợp với Bộ GD-ĐT hỗ trợ các trang thiết bị dạy học tiếng Anh cho các trường ở vùng khó khăn, giao Bộ GD-ĐT phối hợp với các bộ liên quan xây dựng kế hoạch đào tạo giáo viên tiếng Anh cho các vùng khó khăn kèm theo nguồn kinh phí hỗ trợ riêng từ ngân sách Trung ương.
Theo đại biểu đoàn Lào Cai, chỉ có sự phân cấp hợp lý và cơ chế phù hợp thì mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, trong trường học mới thực sự khả thi, công bằng và hiệu quả mọi vùng miền trên đất nước.
Quan tâm đến con em công nhân lao động
Đại biểu Chu Thị Hồng Thái (đoàn Lạng Sơn) cho rằng, mặc dù dự thảo và báo cáo tiếp thu, giải trình nêu, tỷ lệ xã hội hóa chỉ chiếm 10 % tổng mức đầu tư các dự án về giáo dục mầm non phổ thông và giáo dục nghề nghiệp, chủ yếu để bổ sung thiết bị, không gian học tập, sân chơi, hoạt động trải nghiệm,... nhưng phần giải trình chưa đánh giá đầy đủ tại các địa bàn khó khăn.
Thực tế ở nhiều xã miền núi, vùng sâu, vùng xa gần như không có doanh nghiệp đủ tiềm lực tài chính, người dân thu nhập thấp nên khả năng huy động xã hội hóa là rất hạn chế. Nếu ấn định tỷ lệ xã hội hóa cứng là 10 % mà không đạt được từ doanh nghiệp thì nguy cơ hiện hữu là các cơ sở giáo dục và chính quyền cơ sở sẽ vận động, kêu gọi đóng góp tự nguyện từ phụ huynh học sinh.

ĐBQH Chu Thị Hồng Thái - Lạng Sơn. Ảnh Quốc hội
Điều này dẫn đến nghịch lý là Nhà nước thực hiện chủ trương miễn học phí hoặc không tăng học phí, nhưng trên thực tế tổng chi phí giáo dục mà hộ gia đình phải gánh có thể tăng thông qua các khoản thu ngoài học phí. Nếu không được nhận diện và kiểm soát tốt, cơ chế xã hội hóa có nguy cơ làm giảm hiệu quả của chính sách miễn giảm học phí, tăng áp lực tài chính cho người dân, đặc biệt ở vùng dân tộc thiểu số, đi ngược với mục tiêu công bằng trong tiếp cận giáo dục.
“Do đó tôi đề nghị không áp dụng cứng tỷ lệ 10% và hạn chế huy động từ phụ huynh. Các hạng mục thiết yếu phải được ngân sách đảm bảo để không làm tăng chi phí giáo dục cho người dân, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang thực hiện chủ trương miễn học phí cho học sinh phổ thông”, đại biểu Chu Hồng Thái nêu ý kiến.
Đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân (đoàn TP.HCM) thì nhận xét, bất bình đẳng cơ hội giáo dục không chỉ ở miền núi mà ngay trong lòng đô thị, đó là con em công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Nhìn bề ngoài, các cháu sống ở đô thị, gần trung tâm, tưởng như có điều kiện thuận lợi hơn. Nhưng thực tế, đời sống công nhân còn khó khăn: nhà trọ chật hẹp, môi trường sống không đảm bảo, cha mẹ làm việc tăng ca liên tục, mức thu nhập bấp bênh, không đủ thời gian chăm sóc, hỗ trợ con học hành.
Nếu so với trẻ em miền núi, khó khăn của hai đối tượng tuy khác về hình thức, nhưng điểm chung là đều chịu thiệt thòi: thiếu môi trường học tập chất lượng, thiếu sự hỗ trợ từ gia đình và thiếu cơ hội phát triển toàn diện. Có nơi, hơn 70% trẻ em ở khu công nghiệp không được học các môn năng khiếu, ngoại ngữ hay các hoạt động ngoài giờ vì điều kiện kinh tế gia đình không cho phép.

ĐBQH Nguyễn Hoàng Bảo Trân. Ảnh: Quốc hội
Vì vậy, đại biểu đoàn TP.HCM đề nghị chương trình mục tiêu quốc gia phải xác định rõ con em công nhân lao động là một nhóm đối tượng cần ưu tiên hỗ trợ chứ không nằm trong nhóm đối tượng chung chung.
Không chỉ ưu tiên trong chính sách học bổng, mà còn trong các nội dung như: Hỗ trợ xây dựng trường công lập gần khu công nghiệp, mô hình trường bán trú - bán trú linh hoạt, không gian học tập cộng đồng trong khu nhà trọ, chương trình hỗ trợ tâm lý - kỹ năng cho trẻ em di cư.
“Chúng ta không thể để một bộ phận lớn con em lực lượng lao động nòng cốt của nền kinh tế phải chịu thiệt thòi về cơ hội giáo dục. Công bằng giáo dục không chỉ là chuyện vùng núi - vùng xuôi mà còn là công bằng ngay trong lòng các đô thị công nghiệp”, đại biểu Nguyễn Trần Bảo Trân nói.












