Để ngành lúa gạo phát triển bền vững
Ninh Bình hiện là một trong những vựa lúa trọng điểm của vùng đồng bằng sông Hồng với quy mô đất trồng lúa khoảng 148 nghìn ha, sản xuất khoảng 1,5 triệu tấn lúa mỗi năm. Thời gian qua, dù ngành lúa gạo của tỉnh đã gặt hái được nhiều thành quả, nhưng những câu hỏi lớn vẫn đang thử thách cả nông dân và nhà quản lý: Làm thế nào để giải quyết triệt để tình trạng sản xuất bấp bênh, giúp nông dân làm giàu từ cây lúa, đồng thời kiến tạo một ngành hàng thực sự bền vững?

Niềm vui thu hoạch của nông dân HTX Ân Hòa, xã Kim Sơn. Ảnh: Ngọc Linh
Kỳ 1: Chuyển từ lượng sang chất
Thực tế cho thấy, sự phát triển của ngành lúa gạo Ninh Bình những năm gần đây đã đi đúng hướng, khi tập trung thay đổi cơ cấu giống lúa từ đại trà sang đặc sản, chất lượng cao.
Lấy chất lượng và hiệu quả làm mục tiêu
Trong bối cảnh xu hướng tiêu dùng gạo chất lượng cao tăng mạnh, nhất là tại các vùng đô thị, nông dân Ninh Bình đã nhanh chóng chuyển mạnh sản xuất từ lúa lai, lúa thường sang các giống lúa có chất lượng gạo thơm, ngon. Việc chuyển đổi này không chỉ là chiến lược mà còn là thực tế được minh chứng qua các con số: hiện, diện tích lúa chất lượng cao, lúa đặc sản đã đạt tới 70% tổng diện tích toàn tỉnh, thay vì tỷ lệ khiêm tốn trước đây.
Những ngày đầu tháng 11, tại cánh đồng HTX Ân Hòa, xã Kim Sơn, từng vạt lúa Dự, nếp Đen sắp đến độ thu hoạch, vàng đều tăm tắp, phẳng lỳ như một tấm thảm. Ông Dương Văn Phái, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Ân Hòa hồ hởi cho biết: Những năm gần đây, ở vụ Mùa, có tới 90% diện tích là bà con cấy bằng các giống lúa đặc sản, truyền thống như nếp Đen, Dự.
Những giống lúa này mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt: Chúng ít chịu ảnh hưởng của mưa bão, ít sâu bệnh, không đòi hỏi nhiều công chăm sóc, nên năng suất khá ổn định. Như vụ mùa khắc nghiệt năm nay, trong khi nhiều nơi năng suất lúa sụt giảm nghiêm trọng, nhưng năng suất lúa ở HTX vẫn “neo” được ở mức 1,4- 1,5 tạ/sào. Điều đáng nói là giá bán loại lúa này cao hơn hẳn so với các giống lúa truyền thống. Trong khi lúa tẻ tươi thị trường đang bán giá 7.000-7.500 đồng/kg thì nếp Đen được thương lái mua với giá 13.000 đồng/kg, còn lúa Dự là 11.000-12.000 đồng/kg.

Ở vụ Mùa, có tới 90% diện tích lúa ở HTX Ân Hòa, xã Kim Sơn được nông dân gieo cấy bằng các giống lúa đặc sản truyền thống như nếp Đen. Ảnh: Ngọc Linh
Bà Nguyễn Thị Thúy, xóm 9, Ân Hòa, xã Kim Sơn, chia sẻ sau khi thu hoạch xong 5 sào nếp Đen của gia đình: “Trước đây, gia đình cấy các giống tẻ thường, lúa lai, tuy năng suất cao nhưng giá lại thấp, dễ bị ảnh hưởng của sâu bệnh. 5-7 năm trở lại đây, tôi cũng như nhiều bà con trong vùng bảo nhau chuyển hẳn sang gieo cấy giống nếp Đen này, năng suất ổn định, sản phẩm cũng dễ bán hơn, thương lái đến mua lúa tươi tận ruộng, không tốn công phơi sấy, ai cũng phấn khởi”.
Để tối ưu hóa hiệu quả kinh tế và tính bền vững, song song với sản xuất các giống lúa chất lượng cao, nông dân còn tích cực áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất. Các mô hình hiệu quả như “3 giảm, 3 tăng” và “1 phải, 5 giảm” đã được triển khai. Nông dân còn dần làm quen với sản xuất an toàn theo hướng VietGap, hữu cơ hay mở rộng mô hình canh tác lúa tiết kiệm nước, tạo tín chỉ carbon với diện tích toàn tỉnh đạt trên 6.400 ha.

Lúa Dự - giống lúa đặc sản truyền thống đang được nhiều nông dân lựa chọn đưa trở lại vào cơ cấu sản xuất những năm gần đây. Ảnh: Ngọc Linh
Ngoài ra, từ lực đẩy của các chính sách hỗ trợ thúc đẩy cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh, nhiều nông dân mạnh dạn đầu tư mua sắm máy móc, cơ giới hóa đồng bộ các khâu sản xuất. Hiện nay, cơ giới hóa khâu làm đất sản xuất lúa đạt 100% diện tích, khâu thu hoạch lúa đạt 96% diện tích. Toàn tỉnh hiện có khoảng 500 cánh đồng lớn với diện tích trên 22.000 ha tạo điều kiện thuận lợi cho cơ giới hóa.
Đặc biệt, hiện nay trên tỉnh Ninh Bình cũng đã hình thành lớp nông dân mới - những “đại điền” đứng ra tích tụ ruộng đất, sản xuất quy mô lớn, tiên phong trong việc ứng dụng cơ giới hóa, tiếp cận và thực hành nông nghiệp hữu cơ, bền vững, làm giàu từ cây lúa.
Liên kết đưa hạt gạo vươn xa
Việc chuyển đổi cơ cấu giống và ứng dụng cơ giới hóa đã giúp nông dân tạo ra hạt gạo chất lượng. Tuy nhiên, để giấc mơ làm giàu từ cây lúa trở nên hiện thực, cần có một lời giải chắc chắn cho bài toán đầu ra và rủi ro thị trường. Đó chính là lúc mô hình liên kết sản xuất phát huy vai trò như một tấm khiên bảo vệ người nông dân.

Lãnh đạo Công ty TNHH Cường Tân trao đổi với nông dân về vụ lúa giống 2025. Ảnh: Ngọc Linh
Cánh đồng Tam Đoạn, xã Ninh Cường là nơi có mô hình liên kết sản xuất lúa giống rộng 40 ha thẳng cánh cò bay với kênh mương thủy lợi kiên cố. Đây là nơi Công ty TNHH Cường Tân đã bắt tay cùng nông dân. Ông Đinh Văn Vịnh, xóm Bội Châu, xã Ninh Cường, người đã đồng hành cùng Công ty TNHH Cường Tân làm lúa giống suốt 20 năm nay, không giấu được niềm phấn khởi: “Làm gần chục mẫu, mỗi năm 2 vợ chồng tôi thu lãi khoảng 100 triệu đồng. So với làm lúa thương phẩm thì làm lúa giống lãi gấp rưỡi, gấp đôi, bởi toàn bộ giống, phân bón, kỹ thuật được Công ty hỗ trợ". Ông Vịnh chính là minh chứng cho thấy, làm nông nghiệp bài bản hoàn toàn có thể mang lại thu nhập ổn định.
Lợi ích của liên kết còn là sự đảm bảo trong bối cảnh thị trường bấp bênh và thời tiết khó lường. Câu chuyện của vụ lúa Mùa 2025 đầy khắc nghiệt năm nay càng khẳng định sự cần thiết phải có liên kết chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp. Ông Đỗ Khắc Dũng, Chủ tịch HĐQT HTX nông nghiệp Nam Thành, xã Nam Đồng chia sẻ: Vụ Mùa năm nay mưa bão, sâu bệnh nhiều nên chi phí sản xuất đội lên cao trong khi năng suất lúa sụt giảm. Điều đáng nói là giá lúa trên thị trường tự do còn giảm sâu, nếu không có liên kết thì nông dân cầm chắc thua lỗ. 6 năm nay HTX thường xuyên ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với Công ty TNHH Toản Xuân nên nông dân có được giá bán cao hơn, thu nhập tốt hơn mà không phải lo phơi sấy gì.
Việc liên kết càng trở nên quan trọng đối với các hộ sản xuất lớn. Đại điền Phạm Văn Hướng, ở phường Đông Hoa Lư canh tác 125 ha lúa thì có 100 ha liên kết với Công ty TNHH Cường Tân để sản xuất dòng gạo cao cấp (Hương Cốm) phục vụ xuất khẩu. “Giá thị trường khoảng 7.500 đồng/kg thì Công ty TNHH Cường Tân thu mua với giá 8.800 đồng/kg. Điều quý giá hơn cả chênh lệch giá là khả năng kiểm soát chất lượng sau thu hoạch”, ông Hướng nhấn mạnh.
Ông Hướng cho biết: Từ ngày liên kết với Công ty, ông bỏ lối canh tác cũ, theo thói quen... chuyển sang sản xuất bài bản, bón phân, phun thuốc theo đúng quy trình, hướng dẫn của Công ty, chú trọng sử dụng phân hữu cơ để tạo ra sản phẩm chất lượng, an toàn. Ông thực sự tự hào khi những hạt gạo do chính tay ông trồng cấy giờ đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính nhất trên thế giới.

Cánh đồng Tam Đoạn, xã Ninh Cường được Công ty TNHH Cường Tân đầu tư cải tạo hệ thống giao thông, kênh mương nội đồng, đảm bảo cơ giới hóa đồng bộ. Ảnh: Ngọc Linh
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Lâm Văn Chiểu, Phó Giám đốc Công ty TNHH Cường Tân, đã khẳng định nguyên tắc hoạt động: “Mô hình của Cường Tân là mô hình bảo lãnh trách nhiệm, chia sẻ rủi ro”. Công ty luôn tính toán cân đối giá thu mua để đảm bảo thu nhập cho người nông dân yên tâm sản xuất. Hiện nay, Công ty có khoảng 2.800 ha liên kết với nông dân, trong đó có 700-800 ha làm lúa giống, tập trung ở Ninh Bình, Thanh Hóa, Hà Nội. Năm 2024 vừa qua, Công ty đưa ra thị trường khoảng 3.000 tấn lúa giống, 6.000 tấn gạo thương phẩm. Hiện, Công ty TNHH Cường Tân có nhóm gạo xuất khẩu đi Mỹ, Úc, Nhật Bản và châu Âu, đạt các tiêu chuẩn quốc tế ISO về gạo.
Lúa là cây trồng chủ lực trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Việc nâng cao giá trị lúa gạo chính là nâng cao thu nhập cho đại bộ phận nông dân. Có thể thấy, với sự chuyển đổi mạnh mẽ từ lượng sang chất, áp dụng cơ giới hóa và thúc đẩy liên kết, Ninh Bình đã đặt những viên gạch vững chắc cho một ngành hàng lúa gạo không chỉ hiệu quả mà còn bền vững.
(Còn nữa)












