Đề xuất cơ chế đột phá cho viện dưỡng lão để đối phó tình trạng 'chưa giàu đã già'
Chính phủ dự kiến dành hơn 125.000 tỷ đồng cho chương trình chăm sóc sức khỏe và dân số. Đại biểu cảnh báo thách thức 'chưa giàu đã già' và đề nghị có chính sách đột phá thu hút nguồn lực tư nhân xây dựng cơ sở dưỡng lão.
Tốc độ già hóa dân số của Việt Nam đang dẫn đầu thế giới
Sáng nay (2/12), Quốc hội thảo luận về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.
Theo tờ trình của Chính phủ, tổng kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 là 125.478 tỷ đồng. Thời gian thực hiện là 10 năm, từ 2026 đến hết 2035 và chia thành hai giai đoạn.

Đại biểu Trần Thị Hiền (Ninh Bình)
Mục tiêu của chương trình là nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng, người dân chủ động tự chăm sóc và nâng cao sức khỏe; hạn chế bệnh tật, được phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở; giải quyết các vấn đề dân số ưu tiên, chủ động thích ứng với già hóa, nâng cao chất lượng dân số.
Các đại biểu đánh giá rất cao mục tiêu của Chương trình, song đề nghị có thêm giải pháp để chăm sóc sức khỏe người cao tuổi trong bối cảnh dân số đang già hóa rất nhanh.
Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh (Phú Thọ) cho rằng, Việt Nam là một quốc gia có tốc độ già hóa dân số hàng đầu thế giới nhưng vấn đề chăm sóc sức khỏe người cao tuổi chưa được cụ thể hóa trong Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035. Do đó, đại biểu đề nghị Chính phủ cần cân đối các nguồn vốn đầu tư phát triển đã bố trí trong Chương trình để bố trí cho tiểu dự án nâng cao chất lượng dân số và tiểu dự án thích ứng với già hóa dân số, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.
Đại biểu Trần Thị Hiền (Ninh Bình) chỉ ra rằng, dân số Việt nam đã bước vào giai đoạn già hóa, dự báo đến năm 2036 trở thành dân số già và đến năm 2049 là “siêu già”. Đặt bên cạnh mục tiêu đến năm 2045 nước ta trở thành nước thu nhập cao thì có thể thấy thách thức “già trước khi giàu” là rất thực tế và sẽ tạo áp lực rất lớn đối với cả ngân sách nhà nước và nguồn lực xã hội cho các vấn đề về chăm sóc y tế, bảo đảm an sinh, chuẩn bị hạ tầng xã hội phù hợp với người cao tuổi, đặc biệt là với việc phát triển các cơ sở dưỡng lão, chăm sóc người cao tuổi chuyên nghiệp.
Theo Tiểu dự án 1 trong Dự án 4 của Chương trình mục tiêu quốc gia, đến năm 2030, Việt Nam có khoảng 60 cơ sở và đến năm 2035 là khoảng 70 cơ sở, thấp hơn 30 cơ sở so với quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội thời kỳ 2026 – 2030 (đến năm 2030 phải đạt “tối thiểu 90 cơ sở chăm sóc người cao tuổi”, gồm cả công lập và ngoài công lập).
Để bù đắp sự thiếu hụt này, theo đại biểu, cần có cơ chế, chính sách thực sự đột phá để thu hút nguồn lực xã hội hóa, thu hút nguồn lực tư nhân phát triển dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, đặc biệt là chính sách đột phá về đất đai, thuế, tài chính.
Đại biểu cũng kiến nghị hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ thuật đối với cơ sở dưỡng lão và thí điểm mô hình chăm sóc bán trú đối với nguời cao tuổi.
Cũng liên quan tới chăm sóc sức khỏe, dân số, đại biểu Tô Ái Vang (đoàn TP. Cần Thơ) đề nghị khi xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia cần bổ sung dự án về chiến lược sức khỏe nam giới tuổi trung thọ. Theo đại biểu, nam giới Việt Nam đang có tuổi thọ trung bình và tuổi sống khỏe mạnh thấp hơn nhiều so với nữ giới. Do đó, nếu không có giải pháp nâng cao tuổi thọ và tuổi sống khỏe mạnh của nam giới trung thọ, họ sẽ đối mặt với nhiều biến đổi về sức khỏe và cuộc sống. Khi đó, gia đình và xã hội có thể thiếu vắng một trụ cột quan trọng.
Cần bộ tiêu chí quốc gia mới về y tế xã
Theo các đại biểu, mục tiêu tối thượng của Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 phải là nâng cao mức độ thụ hưởng thực chất của người dân. Muốn vậy, điều đầu tiên là phải nâng cao chất lượng y tế cơ sở, đặc biệt là cấp xã.
Đại biểu Trần Thị Nhị Hà (Hà Nội) cho rằng, để thực hiện mục tiêu “tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và đạt 95% đến năm 2035”, trước hết, phải có bộ tiêu chí mới phù hợp. Bộ tiêu chí hiện hành được ban hành năm 2023 theo mô hình tổ chức xã, phường cũ hiện không còn phù hợp nữa.
Mặt khác, Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã hiện hành chỉ được áp dụng đến năm 2030, trong khi Chương trình mục tiêu lại kéo dài đến năm 2035, nên việc ban hành bộ tiêu chí mới là rất cần thiết.
Hơn nữa, Bộ Y tế vừa ban hành Thông tư 43, theo đó từ nay đến năm 2030 tồn tại hai mô hình Trạm Y tế xã với phương thức tổ chức và hoạt động rất khác nhau. Điều này đồng nghĩa bộ tiêu chí tương lai phải đủ linh hoạt, phù hợp cho từng mô hình. Như vậy khi những tiêu chí nền tảng còn chưa được xác định, việc ấn định một tỷ lệ đạt chuẩn cao như trong dự thảo cần được xem xét thận trọng để bảo đảm tính khả thi và tính trung thực của mục tiêu.
“Đề nghị, trước khi Quốc hội thông qua Nghị quyết, Bộ Y tế cần ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã mới, phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp; đồng thời có giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin để việc đánh giá các tiêu chí được thực hiện một cách công khai, minh bạch, không cảm tính”, đại biểu đề nghị.
Nếu mục tiêu là 100% trạm y tế xã quản lý được một số bệnh không lây nhiễm thì cơ bản chúng ta đã thực hiện được từ nhiều năm qua. Điều quan trọng hơn là phải đạt bao nhiêu phần trăm người bệnh được quản lý và điều trị ngay tại tuyến y tế cơ sở.
Do đó, đại biểu kiến nghị điều chỉnh mục tiêu theo tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh không lây nhiễm được quản lý tại y tế cơ sở đạt 80% vào năm 2030 và 90% vào năm 2035. Để hiện thực hóa mục tiêu này, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng kế hoạch triển khai thật khoa học, chặt chẽ và có chiều sâu; đồng thời cần sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của chính quyền địa phương các cấp.












