Đổi mới căn bản y tế và giáo dục để kiến tạo Việt Nam hạnh phúc

Góp ý Văn kiện Đại hội Đảng XIV tại phiên họp tổ, ĐBQH Trần Thị Nhị Hà nhấn mạnh, cần đổi mới căn bản y tế và giáo dục, hướng tới Việt Nam hạnh phúc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng diễn ra trong thời khắc có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng, khi những quyết sách mang tầm thời đại của Đảng và Nhà nước đã thực sự đi vào cuộc sống. Đất nước ta đã bước vào kỷ nguyên mới, vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong kỷ nguyên ấy, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Sức khỏe là vốn quý nhất của con người; giáo dục là nền tảng của phát triển bền vững; đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực của tương lai. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là nhiệm vụ chính trị hàng đầu; phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; còn chuyển đổi số là đột phá chiến lược để kiến tạo một Việt Nam hạnh phúc, phồn vinh trong kỷ nguyên mới”.

 ĐBQH Trần Thị Nhị Hà, Phó Trưởng Ban Dân nguyện của Quốc hội.

ĐBQH Trần Thị Nhị Hà, Phó Trưởng Ban Dân nguyện của Quốc hội.

Dấu ấn mới của Báo cáo chính trị Đại hội XIV

Điểm mới của Báo cáo chính trị lần này là sự tích hợp nội dung của ba văn kiện, gồm: Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng, bảo đảm sự nhất quán về nội dung: ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Lần đầu tiên, Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV trở thành bộ phận cấu thành của Dự thảo Báo cáo.

Chương trình hành động chỉ rõ các chương trình, đề án, dự án cụ thể thực hiện trong nhiệm kỳ 5 năm, phân công trách nhiệm cụ thể cho các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương, khắc phục tình trạng sau Đại hội toàn quốc phải chờ đợi cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội; đồng thời đề cao tính hành động, bám sát mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, định hướng phát triển, nhiệm vụ trọng tâm và các đột phá chiến lược để tổ chức thực hiện ngay sau Đại hội.

Với tinh thần đó, tôi xin tập trung đóng góp một số ý kiến vào chương trình hành động về 2 lĩnh vực là Y tế và giáo dục.

Xây dựng y tế cơ sở là nền tảng, y tế dự phòng là trọng tâm

Đối với hệ thống y tế, các văn kiện đều xác định rằng cần xây dựng y tế cơ sở là nền tảng, y tế dự phòng là trọng tâm, tăng cường công bằng, bao phủ y tế, tăng đầu tư công cho y tế. Tuy nhiên, các định hướng phát triển y tế trong Dự thảo Chương trình hành động vẫn chưa thực sự tương xứng với kỳ vọng của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; với định hướng chiến lược phát triển y tế trong kỷ nguyên mới của dân tộc, nhất là chưa gắn với các nghị quyết chuyên đề của Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết số 72 về đột phá y tế, phát triển công nghiệp dược – vắc xin, y tế cơ sở và chuyển đổi số y tế.

Tôi đề nghị cần đưa vào Chương trình hành động việc thực hiện đồng bộ các nghị quyết chuyên đề mới của Trung ương về lĩnh vực y tế và an sinh xã hội để bảo đảm tính thống nhất và liên kết của hệ thống văn kiện, coi đây là nền tảng quan trọng để nâng chỉ số sống khỏe của Nhân dân.

Nguyên tắc y tế cơ sở là nền tảng. Y tế cơ sở không chỉ là “tuyến đầu” trong phòng, chống dịch bệnh mà phải là hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn diện suốt vòng đời, gồm: dự phòng – điều trị – phục hồi – giáo dục sức khỏe. Việt Nam khác biệt với tất cả các quốc gia trên thế giới ở chỗ có hệ thống trạm y tế xã, phường rộng khắp theo địa bàn dân cư; tuy nhiên, trạm y tế hiện nay hoạt động còn thiếu tính kết nối. Hệ thống y tế cơ sở muốn phát triển tốt thì bắt buộc trạm y tế phải gắn với mô hình bác sĩ gia đình, chăm sóc liên tục và có hồ sơ sức khỏe điện tử, để sức khỏe của mỗi người dân đều được quản lý và có kế hoạch chăm sóc từ sớm, từ xa.

Bao phủ y tế không chỉ đơn giản là tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế, mà quan trọng hơn là bao phủ dịch vụ y tế thiết yếu. Cần có chính sách để bảo đảm người dân được tiếp cận các dịch vụ y tế thiết yếu về khoảng cách, về thời gian; người dân được tiếp cận với dịch vụ cấp cứu khẩn cấp trong “khung giờ vàng”. Trên cơ sở đó, cần xây dựng mạng lưới y tế phù hợp với từng địa bàn, nhằm kiểm soát việc chuyển tuyến tràn lan, tránh tình trạng bệnh viện tuyến trên quá tải, trong khi vùng sâu, vùng xa lại thiếu dịch vụ y tế.

Về y tế thông minh và chuyển đổi số, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) coi đây là công cụ để đạt được công bằng và bao phủ y tế toàn dân. Y tế thông minh không chỉ là hồ sơ sức khỏe điện tử, mà còn là dữ liệu mở, trí tuệ nhân tạo (AI) trong hỗ trợ chẩn đoán, quản trị thông minh, hệ thống cảnh báo dịch bệnh… Chúng ta cần phải hướng tới việc “xây dựng hệ sinh thái y tế số nhân văn”, bởi chỉ có công nghệ mới giúp hệ thống y tế vươn tới được mọi người dân, để không ai bị bỏ lại phía sau.

Nguyên tắc lấy con người là trung tâm, phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nhà nước luôn quan tâm đến sức khỏe của người dân, coi người dân là trọng tâm của chính sách. Nguyên tắc “con người là trung tâm” ở đây cần được hiểu rằng mỗi cá nhân, mỗi con người phải là chủ thể đầu tiên, chủ thể quan trọng nhất trong việc chăm sóc sức khỏe của chính mình. Nhà nước cần có chính sách để mỗi người dân có trách nhiệm với sức khỏe của bản thân. Bên cạnh việc tạo lập một môi trường sống lành mạnh, việc tạo cơ chế để người dân tự chăm sóc, tự tăng cường sức khỏe tinh thần và thể chất cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Tôi đề nghị nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung nội dung mục 6.II trong Chương trình hành động liên quan đến lĩnh vực y tế như sau:

“Xây dựng hệ thống y tế theo hướng hiện đại, thông minh và nhân văn, lấy y tế cơ sở làm nền tảng, y tế dự phòng làm trọng tâm, y tế chuyên sâu làm trụ cột, bảo đảm mọi người dân được quản lý sức khỏe theo hồ sơ điện tử cá nhân. Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số y tế, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về y tế, tích hợp dữ liệu dân cư, bảo hiểm; ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong giám sát, dự báo và quản trị phòng bệnh.

Phát triển đa dạng các mô hình chăm sóc người cao tuổi dài hạn và ngắn hạn dựa vào cộng đồng, lấy người cao tuổi và gia đình làm trung tâm; Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, ban hành chuẩn dịch vụ và cơ chế hỗ trợ nhóm yếu thế; khuyến khích xã hội hóa, phát triển các mô hình kết hợp y tế – phục hồi chức năng – dưỡng lão – nghỉ dưỡng gắn với cộng đồng”.

Thực hiện cơ chế đánh giá tác động của chính sách đối với sức khỏe cộng đồng, lồng ghép mục tiêu sức khỏe trong các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, và xây dựng bộ chỉ tiêu giám sát y tế quốc gia, hướng tới mục tiêu bao phủ y tế toàn dân.

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – quốc sách hàng đầu

Về lĩnh vực giáo dục, cả 03 báo cáo văn kiện đều nhận định rất chính xác giáo dục là quốc sách hàng đầu, động lực then chốt và yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tôi đề nghị cần bổ sung một số nhiệm vụ trong xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới được nêu tại Chương trình hành động. Cụ thể:

Tăng đầu tư công cho giáo dục là nhiệm vụ chiến lược. Chúng ta xác định Giáo dục là quyền cơ bản và một loại dịch vụ công thiết yếu, không thương mại hóa dịch vụ giáo dục quá mức. Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương đã nhận định giáo dục ngoài công lập là cấu phần quan trọng nhưng đồng thời chỉ ra tình trạng xã hội hóa trong giáo dục và đào tạo có biểu hiện sai lệch.

Hiện nay, đầu tư công cho giáo dục có xu hướng giảm, xã hội hóa được đẩy mạnh, nhưng không có cơ chế kiểm soát chất lượng dẫn đến tình trạng bất bình đẳng vùng miền, học phí tăng nhưng chất lượng của học sinh không tăng tương xứng. Giải pháp là phải đẩy mạnh đầu tư công cho lĩnh vực giáo dục, phải có chỉ tiêu hết sức cụ thể như một số lĩnh vực khác.

Xây dựng Khung năng lực quốc gia đảm bảo hệ thống giáo dục phải liên kết chặt với phát triển kinh tế- xã hội, việc làm và năng lực thích ứng trong kỷ nguyên mới. Các báo cáo đều nhận định đào tạo, bồi dưỡng nhân lực chưa gắn kết với thị trường lao động. Nguyên nhân là chúng ta còn thiếu một Khung năng lực quốc gia thống nhất- công cụ để kết nối giáo dục, đào tạo nghề và việc làm.

Tôi kiến nghị trong Chương trình hành động, cần bổ sung rõ định hướng xây dựng Khung năng lực quốc gia gắn với chuẩn đầu ra ngành nghề và Khung trình độ quốc gia (Việt Nam mới chỉ có Khung trình độ quốc gia tập trung chủ yếu vào trình độ bằng cấp, trong khi đó Khung năng lực quốc gia gắn với việc mô tả năng lực, kỹ năng và hành vi nghề nghiệp).

Muốn thay đổi được tư duy tuyển dụng theo bằng cấp thì phải xây dựng Khung năng lực quốc gia làm căn cứ để thực hiện việc tuyển dụng. Đây là nền tảng để chuẩn hóa chất lượng nhân lực Việt Nam, bảo đảm tính liên thông, hội nhập và thích ứng với chuyển đổi số.

Bên cạnh đó cần Xây dựng nhiệm vụ bảo đảm bình đẳng, bao trùm và học tập suốt đời. Ba báo cáo đều thống nhất nêu chủ trương ‘xây dựng xã hội học tập, thúc đẩy học tập suốt đời’ đây là một định hướng rất đúng và mang tầm chiến lược lâu dài. Tuy nhiên, chủ trương này chưa được cụ thể hóa bằng cơ chế pháp lý, tài chính, chưa cụ thể hóa trong Chương trình hành động.

Chúng ta nói về học tập suốt đời nhưng thực tế hầu hết người Việt Nam chỉ học hết bậc đại học (khoảng trên 20 tuổi), nguyên nhân vì chúng ta chỉ có chính sách hỗ trợ học phổ thông, học đại học nhưng không có chính sách hỗ trợ học tập suốt đời.

Tôi đề xuất đưa vào trong Chương trình hành động những giải pháp hết sức cụ thể, như giải pháp thành lập “Quỹ phát triển năng lực và học tập quốc gia” để tài trợ cho người dân học lại và chuyển nghề như 1 số Quốc gia trên thế giới.

ĐBQH Trần Thị Nhị Hà, Phó Trưởng Ban Dân nguyện của Quốc hội

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/doi-moi-can-ban-y-te-va-giao-duc-de-kien-tao-viet-nam-hanh-phuc-post1584589.html