Đổi mới tư duy để nông nghiệp đi xa và bền vững
Tám mươi năm, từ hạt lúa cúi đầu đến hạt giống tri thức, nông nghiệp Việt Nam đã trải qua bao chặng đường. Mỗi thế hệ để lại một viên gạch. Từ viên gạch ấy, hôm nay ta có thể xây nền cho một ngôi nhà lớn hơn, vững chãi hơn: Nông nghiệp xanh - Văn minh - Hiện đại - Hạnh phúc.
Câu chuyện bốn thế hệ trên cùng một cánh đồng
Hãy hình dung một chiều, bốn thế hệ nông dân cùng ngồi bên nhau trên khúc sông quê.
Ông rít một hơi thuốc lào, kể về những năm tháng đói kém, khi hạt lúa kháng chiến được giữ như hạt ngọc, gieo xuống mảnh đất khô cằn vẫn gắng mọc lên. Cha ngẫm lại thời vừa cuốc đất vừa né bom, vẫn cố giữ lấy ruộng đồng xanh, cho hạt gạo làng ta nuôi quân đến ngày toàn thắng. Con thì nhớ về những ngày đổi mới, khi khoán 10 mở đường, hạt gạo Việt lần đầu vượt biển lớn. Và đứa cháu hôm nay, thế hệ mới, say sưa nói về nông nghiệp tuần hoàn, về trí tuệ nhân tạo, về dữ liệu số trên cánh đồng, nói về đưa thương hiệu Gạo Việt ra biển lớn.

Gạo khẩu đạt giá trị khoảng 9 triệu tấn, mang về 5,7 tỷ USD trong năm 2024. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Tám mươi năm, bốn thế hệ, nhưng một dòng chảy bất tận: Từ hạt lúa nặng chắc cúi đầu đến hạt giống tri thức, hạt gạo của niềm tin dân tộc. Niềm tin rằng, chuyển đổi nông nghiệp với cách tiếp cận mới trong kỷ nguyên mới sẽ lại một lần nữa định vị giá trị nông nghiệp trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tăng trưởng và phát triển - Hạt lúa nhiều hay hạt lúa ngon?
Nhiều người nghĩ thành công của nông nghiệp đo bằng bao nhiêu tấn lúa, bao nhiêu tấn cá, bao nhiêu tỷ đô la xuất khẩu. Đó là tăng trưởng, nghĩa là nhiều hơn, to hơn. Nhưng phát triển lại là câu chuyện khác. Hạt gạo ấy có ngon không, con cá ấy có sạch không, có giữ đất, giữ nước cho mai sau không, có làm người nông dân bớt nhọc nhằn hơn không? Chiếc bánh tăng trưởng có chia phần xứng đáng cho người nông dân trên đồng, cho ngư dân dưới biển, cho bà con bám rừng, bám sông, bám suối không?

HTX Nông nghiệp Ái Nghĩa, Xã Đại Lộc, Thành phố Đà Nẵng liên kết với các doanh nghiệp để sản xuất hạt giống lúa lai F1 theo chuỗi giá trị, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: T.N.
Tăng trưởng giống như gieo thật nhiều hạt, thấy đồng lúa xanh trong một vụ mùa. Phát triển giống như chăm cho đất khỏe, nước trong, môi trường lành, để vụ mùa nào cũng trọn vẹn, để đời con, đời cháu còn cấy cày được. Nếu chỉ chạy theo tăng trưởng, chúng ta có thể “no bụng” hôm nay nhưng “đói niềm tin” ngày mai. Chỉ khi biết cân bằng giữa tăng trưởng và phát triển, nông nghiệp mới thật sự giàu có, bền lâu, nhân văn.
Kinh tế nông nghiệp tích hợp - Một cây, nhiều quả
Một cây xoài không chỉ cho quả. Nó còn cho hoa thơm, bóng mát, cảnh quan, du lịch trải nghiệm. Một con cá tra không chỉ để xuất khẩu phi lê, mà còn cho dầu cá, collagen, thức ăn chăn nuôi. Một cánh đồng lúa không chỉ để gặt, mà còn để làm du lịch, để tạo tín chỉ các-bon, để sản xuất rơm rạ sinh khối.
Nếu chỉ nhìn vào hạt gạo, ta chỉ thấy một. Nếu biết nhìn bằng tư duy tích hợp, ta sẽ thấy nhiều. Nông nghiệp không chỉ bán nông sản mà còn bán trải nghiệm, bán ký ức, bán văn hóa. Đó là cách biến nông thôn từ nơi “đủ sống” thành nơi “đáng sống”.

Trên cùng diện tích canh tác, người dân có thể tích hợp trồng nhiều loại khác nhau để gia tăng lợi nhuận. Ảnh: VGP/Thiện Tâm
Sản xuất hàng hóa lớn và sản xuất nhỏ - Mỗi vùng, một cách gieo trồng
Đất nước trải dài, mỗi vùng có một cách gieo trồng. Tây Nguyên hợp với cây công nghiệp tập trung. Đồng bằng sông Cửu Long hợp với lúa gạo, thủy sản quy mô lớn. Nhưng miền núi lại hợp với chè Shan Tuyết, thảo dược, nông sản bản địa.
Không thể bắt vùng nào cũng chạy theo sản xuất lớn, cũng không thể để vùng nào mãi loay hoay với sản xuất nhỏ lẻ. Nông nghiệp cần cả hai. Sản xuất hàng hóa lớn để tạo sức mạnh cạnh tranh quốc tế. Sản xuất nhỏ, đặc thù để giữ lại bản sắc, để khai thác thị trường ngách, để làm du lịch nông thôn.
Như trong một khu vườn, có cây đại thụ vươn cao, cũng có loài hoa nhỏ tỏa hương. Tất cả cùng làm nên vẻ đẹp chung.
Liên kết - hợp tác xã - cộng đồng: Tổ chức lại niềm tin
Nông dân Việt Nam thường giỏi việc đồng áng, nhưng yếu khi bước ra thị trường. Vì sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự phát, nên dễ rơi vào thế yếu. Muốn thoát khỏi tình trạng trên, phải biết liên kết hợp tác xã, hội quán, câu lạc bộ... đó chính là “cái rễ” để nông dân đứng vững, nhưng để rễ bám chắc, cần phân biệt:

Nông nghiệp là ngành kinh tế khai thác trực tiếp lợi thế từ tài nguyên thiên nhiên, do đó cần có sự quản lý tổng thể để sử dụng hiệu quả và bền vững hơn. Ảnh: Kim Anh.
Quản lý chỉ giữ cho đúng quy định, giống như hàng rào ngăn trâu, bò phá lúa.
Quản trị là cách tưới tắm, bón phân, nuôi dưỡng cây để lớn lên.
Quản lý giữ cho nông nghiệp không rối loạn.
Quản trị làm cho nông nghiệp trưởng thành bằng một hệ sinh thái đi cùng nhau.
Một hợp tác xã thật sự mạnh không chỉ nhờ quản lý chặt, mà nhờ quản trị tốt. Tức là biết tạo niềm tin, tổ chức trách nhiệm, cùng chia sẻ lợi ích.
Nông dân làm trung tâm - Chính sách đến được dân, tri thức hóa từ gốc
Nông dân không thể là đối tượng “được quản lý”. Nông dân phải là trung tâm, là chủ thể. Nhưng muốn bà con làm chủ, cần tri thức hóa từ gốc.
Tri thức hóa không phải chỉ dạy công nghệ cao, mà trước hết là kiến thức thường thức: Biết tính chi phí, biết xem thị trường, biết bán hàng qua điện thoại. Nhiều khi, chỉ một tri thức nhỏ mà thiết thực còn quý hơn cả công trình nghiên cứu cao siêu mà không đến được ruộng đồng.

Việt Nam khẳng định vị thế xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới
Phát triển nguồn nhân lực cũng vậy. Không thể chỉ lo cho “tháp ngà” đại học, viện nghiên cứu, mà quên đi “chân đế” ở cơ sở. Nếu gốc yếu, thì ngọn sao bền?
Chính sách cũng thế. Ban hành chính sách mới chỉ là gieo hạt. Quan trọng là hạt ấy có nảy mầm được hay không. Một chính sách chỉ thật sự có ý nghĩa khi đến được với nông dân, được bà con hiểu, tin và làm theo. Nếu chính sách chỉ nằm trên giấy, trên báo cáo, thì giống như hạt giống để trong chum, chẳng bao giờ thành mùa.
Khuyến nông chính là người gieo mầm ấy. Không chỉ hướng dẫn kỹ thuật, mà còn đưa chính sách, đưa thông tin, đưa tri thức, đưa niềm tin về tận làng quê.
Nông nghiệp trong kỷ nguyên AI - Khi nông dân “trông dữ liệu”
Ngày xưa, nông dân “trông trời, trông đất, trông mây”. Hôm nay, nông dân có thể “trông dữ liệu, trông thị trường, trông công nghệ”. Trí tuệ nhân tạo không thay bàn tay nông dân, mà nâng bàn tay ấy lên tầm tri thức. Công nghệ sinh học tạo ra giống mới. Chuyển đổi số mở ra thị trường trực tuyến. Đổi mới sáng tạo biến phụ phẩm thành tài nguyên.

Ảnh: ITN
Nông nghiệp không còn khép kín trong luống cày, mà mở ra như một hệ sinh thái: Từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong, từ trên xuống và từ dưới lên. Khi tất cả cùng nhịp, nông nghiệp không chỉ “tăng trưởng”, mà thật sự “phát triển”.
Định hình tư duy quản trị trong nông nghiệp
Quản lý nông nghiệp và quản trị nông nghiệp nghe gần giống nhau, nhưng khác nhau ở tầm nhìn và cách tiếp cận:
Quản lý nông nghiệp là làm cho công việc vận hành trôi chảy, tập trung vào tổ chức sản xuất, phân công lao động, sử dụng vật tư, thời vụ, chi phí, năng suất... Người quản lý quan tâm “làm đúng việc” để đạt mục tiêu đề ra.

Quản trị nông nghiệp là nghĩ xa hơn một mùa vụ - gắn với chiến lược, mô hình, thị trường, rủi ro, đổi mới sáng tạo và giá trị bền vững. Người quản trị không chỉ “làm đúng việc”, mà còn “chọn đúng việc để làm”.
Nói cách khác: Quản lý là điều hành cái đang có; quản trị là định hình cái sẽ có. Quản lý giúp nông nghiệp ổn định; quản trị giúp nông nghiệp phát triển.
Lạc quan và tự tin bước vào kỷ nguyên mới
Tám mươi năm, từ hạt lúa cúi đầu đến hạt giống tri thức, nông nghiệp Việt Nam đã trải qua bao chặng đường. Mỗi thế hệ để lại một viên gạch. Từ viên gạch ấy, hôm nay ta có thể xây nền cho một ngôi nhà lớn hơn, vững chãi hơn: Nông nghiệp xanh - Văn minh - Hiện đại - Hạnh phúc.
Ngày mai, khi bước ra đồng ruộng, nông dân không chỉ nghe tiếng gió, mà còn nghe được cả tín hiệu dữ liệu. Không chỉ nhìn lúa trổ bông, mà còn thấy thương hiệu, hộ chiếu xanh của nông sản trên thị trường quốc tế.

Việc tích hợp lĩnh vực nông nghiệp và tài nguyên - môi trường sẽ nâng cao hiệu quả quản trị tài nguyên thiên nhiên. Ảnh: Kim Anh
Chúng ta có quyền lạc quan, bởi hành trình 80 năm qua cho thấy: Từ trong gian khó, người nông dân Việt Nam vẫn tìm thấy con đường sống. Vậy thì trong kỷ nguyên mới, với tri thức, với công nghệ, với đổi mới sáng tạo, chúng ta càng có thể và có quyền tự tin hơn, khát vọng cao hơn.
Nông nghiệp Việt Nam sẽ bước vào kỷ nguyên mới không chỉ để đủ nuôi sống một dân tộc hơn trăm triệu người, mà còn để nuôi dưỡng khát vọng hùng cường. Không chỉ để đi theo, mà còn để dẫn lối để đi xa và trở về. Không chỉ để lớn mạnh, mà còn để tự hào đất nước có nền văn minh nông nghiệp.
Và câu nhắc nhở của Bác Hồ: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh” luôn vang lên trên hành trình đất nước tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Một doanh nhân trẻ đang đầu tư nông nghiệp ở nước ngoài đã đúc kết: “Chuyển từ xuất khẩu nông sản sang xuất khẩu giá trị là con đường không thể đảo ngược... Đi càng sớm, hội nhập càng nhanh, cơ hội còn rộng mở”.

Những đóng góp của khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp cho thấy việc phát triển sản xuất ứng dụng công nghệ cao là hướng đi đúng
Đất nước đang thay đổi, nền nông nghiệp cũng đang cần tư duy mới. Tư duy mới phải có mục tiêu mới, chỉ tiêu mới và thang đo mới. Thang đo đó là giảm được bao nhiêu chi phí đầu vào, bao nhiêu phần trăm nông sản được chế biến sâu, mỗi ngành hàng đã ứng dụng tuần hoàn, giảm phát thải được bao nhiêu. Thang đo đó là bao nhiêu chính sách nông nghiệp thật sự ăn sâu, bám rễ vào ruộng đồng, đến được với người nông dân.
Không đo lường được cái mới đến đâu thì không cải thiện được và có thể vẫn vận hành theo cách cũ. Đừng chỉ đọc những con số tăng trưởng, mà phải đọc cả nỗi nhọc nhằn lẫn niềm hạnh phúc của chục triệu nông dân nước nhà.












