'Đòn bẩy' phát triển công nghiệp đường sắt

Chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng vừa chính thức được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9. Theo các đại biểu Quốc hội, Dự án không chỉ mang lại triển vọng cao trong phát triển hành lang giao thông mà còn là 'đòn bẩy' để chuyển giao công nghệ và phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước.

Dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng tạo “đòn bẩy”cho phát triển công nghệ đường sắt trong nước. Ảnh: ST

Dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng tạo “đòn bẩy”cho phát triển công nghệ đường sắt trong nước. Ảnh: ST

Bộ Giao thông vận tải đề xuất định hướng phát triển công nghiệp đường sắt đến năm 2045 là làm chủ về công nghiệp xây dựng, lắp ráp trong nước và từng bước nội địa hóa phương tiện đối với đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị; sản xuất trong nước và từng bước nội địa hóa linh kiện phần cứng, phần mềm về thông tin, tín hiệu và hệ thống cấp điện; làm chủ công tác vận hành, bảo trì và từng bước sản xuất một số linh kiện, phụ tùng thay thế đối với đường sắt tốc độ cao.

Áp dụng chính sách đặc thù mới

Báo cáo trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trần Hồng Minh cho biết, mục tiêu của Dự án là nhằm xây dựng tuyến đường sắt mới hiện đại, đồng bộ đáp ứng nhu cầu vận tải nội địa, liên vận quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc; tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, phát huy lợi thế trên hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng bảo đảm kết nối hiệu quả mạng lưới đường sắt trong nước và quốc tế; thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Với yêu cầu Dự án phấn đấu hoàn thành vào năm 2030, tại Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án, Quốc hội cho phép áp dụng nhiều cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để triển khai Dự án. Các chính sách đưa ra đều dựa trên cơ chế, chính sách đặc thù đã áp dụng để xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.

Bà Phạm Thị Hồng Yến - Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội - cho biết, tại Nghị quyết số 172/2024/QH15 về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, Quốc hội cho phép áp dụng 19 chính sách, cơ chế đặc thù. Tại Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, có 18 cơ chế đặc thù. Trong đó, "có một số chính sách được các đại biểu Quốc hội, cơ quan thẩm tra, ban soạn thảo thảo luận cẩn trọng và đưa vào Nghị quyết nhằm đảm bảo tổ chức thực hiện nhanh, thuận lợi, rút ngắn quá trình" - bà Yến cho biết.

Cụ thể, chính sách mới hơn so với Nghị quyết số 172 là quy định về trường hợp việc lập, thẩm định, phê duyệt dự án có nội dung khác với quy hoạch có liên quan thì dự án được phê duyệt mà không phải thực hiện thủ tục điều chỉnh quy hoạch. Bên cạnh đó, Nghị quyết cho phép áp dụng hình thức chỉ định thầu các gói thầu thuộc dự án. Bà Phạm Thị Hồng Yến nêu rõ, Luật Đấu thầu có quy định cho phép một số các trường hợp được thực hiện hình thức chỉ định thầu. Với Dự án này, Quốc hội đồng ý để đảm bảo đúng tiến độ dự án, cho phép cơ quan tổ chức thực hiện được quyền sử dụng chỉ định thầu nếu cần thiết. Sau khi dự án được phê duyệt, các quy hoạch có liên quan phải được kịp thời rà soát, điều chỉnh, cập nhật và công bố. Điều này giúp quá trình thực hiện Dự án được nhanh chóng. “Đây là chính sách ưu việt dành cho dự án xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng" - bà Yến nói.

Ưu tiên đặt hàng doanh nghiệp trong nước

Để thúc đẩy phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ đường sắt, Nghị quyết của Quốc hội nêu rõ, nhà thầu phải ưu tiên sử dụng các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà trong nước có thể sản xuất, cung cấp. Đối với gói thầu áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu quốc tế, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu phải có điều kiện cam kết của nhà thầu về việc chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cho đối tác Việt Nam để làm chủ công tác quản lý, vận hành, khai thác, bảo trì; từng bước làm chủ công nghệ. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng cho phép áp dụng nhiều chính sách ưu đãi để phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho Dự án.

Quan tâm vấn đề này, qua thảo luận, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Hoàng Văn Cường (Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội) nhấn mạnh, việc đầu tư Dự án này có triển vọng mang lại hiệu quả cao, không chỉ giải quyết vấn đề giao thông mà còn là “đòn bẩy” để chuyển giao công nghệ và phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước. “Từ việc xây dựng Dự án, chúng ta có khả năng chuyển giao công nghệ được một loạt các khâu sản xuất trong nước, đặc biệt tương thích với sản xuất đường sắt đô thị. Sau khi xây dựng xong tuyến này, chúng ta có thể làm chủ công nghệ về công nghiệp đường sắt đô thị và có thể phát triển mạng lưới đường sắt đô thị bằng kỹ thuật trong nước” - đại biểu Cường nói.

Vì vậy, đại biểu Hoàng Văn Cường đề nghị, cần ưu tiên đặt hàng và giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp trong nước làm chủ 3 lĩnh vực: Thứ nhất là xây dựng đường, cầu, hầm; thứ hai là sản xuất về đường ray; thứ ba là đóng toa xe. Đại biểu chỉ rõ, các doanh nghiệp đều khẳng định hoàn toàn có thể làm được nếu như Chính phủ đặt hàng. Việc đặt hàng các doanh nghiệp này có thể giá thành ban đầu cao hơn so với việc đi mua quốc tế nhưng sẽ tạo tăng trưởng kinh tế và GDP trong nước. Ngược lại, mua hàng nước ngoài sẽ không mang lại lợi ích này và Việt Nam sẽ không bao giờ có được ngành công nghiệp đường sắt. “Chính phủ phải cam kết cho các doanh nghiệp này có thị phần. Có thị trường đủ lớn thì các doanh nghiệp mới yên tâm đầu tư” - đại biểu Cường kiến nghị.

Mặt khác, đối với những lĩnh vực, công đoạn chúng ta chưa làm chủ được, như sản xuất đầu máy, sản xuất tín hiệu thì cần phải có nhà thầu quốc tế. Tuy nhiên, các đại biểu cho rằng, cần phải có cam kết nhà thầu quốc tế bắt buộc chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước để dự án này xong chúng ta hoàn toàn có thể làm chủ được công nghệ về sản xuất những lĩnh vực này.

Bộ Giao thông vận tải cho biết, với Dự án này, đoàn tàu sẽ được sử dụng công nghệ bảo đảm tính đồng bộ, tiên tiến, thuận lợi cho việc tiếp nhận, chuyển giao, phù hợp với điều kiện khai thác, đồng bộ với các tuyến kết nối quốc tế. Bộ đề xuất lựa chọn công nghệ động lực tập trung cho tàu khách và tàu hàng. Hệ thống thông tin, tín hiệu tương đương với hệ thống đang sử dụng ở các nước trong khu vực. Phương tiện và thiết bị của Dự án là loại hình phù hợp để Việt Nam nhận chuyển giao công nghệ, đầu tư máy móc thiết bị và sản xuất đầu máy, toa xe cho đường sắt quốc gia với tốc độ nhỏ hơn 200 km/h./.

Đ. KHOA

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/don-bay-phat-trien-cong-nghiep-duong-sat-38450.html