Đưa bác sĩ nội trú, chuyên khoa I, II vào Khung trình độ quốc gia để phù hợp với thông lệ quốc tế
Chuyên gia cho rằng, việc đưa BSNT, BSCKI, BSCKII vào khung trình độ năng lực quốc gia là điều hợp lý, tất yếu và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong báo cáo số 2028 gửi đại biểu Quốc hội, giải trình, tiếp thu ý kiến về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lý giải quan điểm về việc không xếp chương trình bác sĩ nội trú, chuyên khoa I, chuyên khoa II nằm trong khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân hay khung trình độ quốc gia.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, về bản chất học thuật - nghề nghiệp, các chương trình bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I và bác sĩ chuyên khoa II là "đào tạo - hành nghề", nhằm mục tiêu tích lũy năng lực thực hành nghề nghiệp và công nhận chuyên khoa. Chuẩn đầu ra của những chương trình này không phải là chương trình đào tạo học thuật để cấp văn bằng thạc sĩ, tiến sĩ, mà hướng tới đào tạo kỹ năng hành nghề chuyên khoa theo chuyên ngành y tế. Do đó, việc xếp bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ chuyên khoa II vào trình độ sau đại học như thạc sĩ, tiến sĩ sẽ phá vỡ tính thống nhất của hệ thống trình độ và học vị, ý nghĩa học thuật của văn bằng thạc sĩ, tiến sĩ.
Tuy nhiên theo nhiều chuyên gia, việc này cũng gây khó khăn cho việc công nhận văn bằng, chuyển đổi tín chỉ và công nhận lẫn nhau trong môi trường giáo dục quốc tế; gây khó khăn trong việc kiểm định và đánh giá.
Phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo tính nhất quán
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Diệp Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng lập luận này chưa thật sự thuyết phục.
Theo thầy Tuấn, khung trình độ quốc gia vốn được xây dựng để mô tả năng lực của mỗi cá nhân trong nền kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, chứ không chỉ dành riêng cho chương trình đào tạo học thuật.
“Nếu giải thích rằng, các chương trình bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I và bác sĩ chuyên khoa II là "đào tạo - hành nghề" nên không phù hợp cho vào khung năng lực trình độ quốc gia là không nhất quán quan điểm, chủ trương. Bởi, hiện nay, khung trình độ bậc 4, khung trình độ bậc 5 trong Khung trình độ quốc gia Việt Nam là Bậc 4 Trung cấp; Bậc 5 - Cao đẳng (thuộc các chương trình giáo dục nghề nghiệp). Vậy tại sao các bậc đó cũng là đào tạo giáo dục nghề nghiệp thì được xếp vào khung trình độ quốc gia, còn bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ chuyên khoa II được lý giải là đào tạo hành nghề lại không đưa vào khung trình độ Bậc 7 - Thạc sĩ; Bậc 8 - Tiến sĩ được?”, thầy Tuấn băn khoăn.
Hơn nữa, việc xem đào tạo bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ chuyên khoa II như một dạng “đào tạo nghề” cũng chưa chính xác. Bác sĩ không phải là người thợ. Để hành nghề, họ bắt buộc phải được đào tạo nền tảng kiến thức khoa học vững chắc, kỹ năng lâm sàng phức tạp và tư duy chuyên môn sâu. Không những vậy, ngay cả trong khối ngành sức khỏe, một số ngành có yếu tố đào tạo hành nghề cao nhưng vẫn không thể xếp vào nhóm chỉ đào tạo nghề, vì nói như vậy là chưa đầy đủ.

Ảnh minh họa. Nguồn: Website Trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, việc không đưa bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ chuyên khoa II vào khung trình độ năng lực quốc gia cũng khiến thầy Tuấn băn khoăn về khía cạnh quản lý nhà nước.
Bởi, nếu ba trình độ này không được xếp vào khung trình độ năng lực quốc gia, liệu có phải là chúng đứng ngoài phạm vi pháp lý? Trong khi đó, trên thực tế, đây là những trình độ chuyên môn rất cao trong xã hội. Vì vậy, càng cần thiết phải quản lý, kiểm soát về mặt đào tạo thông qua khung trình độ. Phần quản lý và đào tạo chuyên môn có thể giao Bộ Y tế phụ trách, nhưng vẫn phải đặt trong khung để bảo đảm minh bạch và thống nhất.
Thầy Tuấn đưa thêm dẫn chứng, hiện nay nhiều quốc gia châu Âu đều đang thực hiện mô hình Bologna Process cho đào tạo Y khoa. Theo đó, sinh viên Y khoa sẽ học theo cấu trúc 2 chu kỳ trong 6 năm để đủ điều kiện trở thành bác sĩ hành nghề (tương đương trình độ thạc sỹ Y khoa), sau đó có thể học lên bằng tiến sĩ y khoa hoặc bác sĩ chuyên khoa. Do đó, các bác sĩ chuyên khoa ở châu Âu vốn được xem là có trình độ tương đương với trình độ tiến sĩ.
Chính vì vậy, việc chúng ta đưa bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ chuyên khoa II vào khung trình độ năng lực quốc gia cũng là điều hợp lý, tất yếu và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cũng theo thầy Tuấn, quá trình đưa bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ chuyên khoa II vào khung trình độ năng lực quốc gia vào khung trình độ cần có sự thảo luận hài hòa giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Bộ Y tế; đồng thời phân định rõ đặc thù của khối ngành sức khỏe, đảm bảo không gây xáo trộn hệ thống văn bằng hiện hành.
Không được xếp vào khung trình độ quốc gia là thiệt thòi lớn đối với đào tạo nhân lực Y
Cùng trao đổi về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải – Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Hải Phòng cho rằng, trong các lĩnh vực đào tạo đại học và sau đại học, ai cũng hiểu ngành Y là lĩnh vực hẹp, đào tạo đặc thù, mang tính ứng dụng cao, vì thế đào tạo thực hành và rèn luyện tay nghề luôn đóng vai trò quan trọng trong đào tạo Y.
Theo thầy Khải, việc hình thành các chương trình bác sĩ chuyên khoa, bác sĩ nội trú đã xuất phát từ rất lâu tại những quốc gia có nền giáo dục và y học phát triển như Pháp, Mỹ – cái nôi của y học hiện đại. Thực tế, nhiều giáo sư đầu ngành của Việt Nam – những người đặt nền móng cho y học cách mạng hầu hết đều là bác sĩ nội trú tu nghiệp từ Pháp trở về.
Hơn nữa, đào tạo chuyên khoa sâu nhằm nâng cao tay nghề và kiến thức chuyên môn, chứ không phải để cấp quyền hành nghề, bởi theo Luật Khám, chữa bệnh hiện hành, bác sĩ đa khoa sau khi tốt nghiệp buộc phải trải qua 12 tháng thực hành để được cấp phép hành nghề.

Sinh viên Trường Y dược, Đại học Đà Nẵng. Ảnh: Website Nhà trường.
Từ nhiều năm nay, bác sĩ chuyên khoa I và bác sĩ chuyên khoa II thường được ví như thạc sĩ thực hành và tiến sĩ thực hành trong lĩnh vực y khoa. Bệnh nhân cũng luôn yên tâm hơn khi được thăm khám bởi các bác sĩ chuyên khoa trong bệnh viện. Ở cấp độ chuyên khoa II, bác sĩ cũng phải làm nghiên cứu và bảo vệ luận văn tốt nghiệp, song song với đó là đáp ứng các yêu cầu lâm sàng cao hơn tiến sĩ, bao gồm kỹ năng khám, chữa bệnh, thao tác thủ thuật, kỹ thuật phẫu thuật và điều trị, …
Vì vậy, theo thầy Khải, đội ngũ bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II cần được công nhận trong hệ thống văn bằng quốc gia. Điều này không chỉ bảo đảm quyền lợi nghề nghiệp – nhất là khi bác sĩ giữ vị trí bác sĩ chính hoặc bác sĩ cao cấp nhưng lại không được công nhận tương ứng khi tham gia giảng dạy tại trường đại học – mà còn liên quan đến học hàm. Trước kia, thời kỳ y học cách mạng, nhiều thầy cô là bác sĩ chuyên khoa, bác sĩ nội trú tu nghiệp ở nước ngoài về đã được bổ nhiệm chức danh phó giáo sư, giáo sư, được không chỉ trong nước mà cả quốc tế công nhận.
“Nếu các trường y không được sử dụng bác sĩ chuyên khoa tham gia đào tạo lâm sàng thì đó sẽ là thiệt thòi lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực y tế. Do vậy, đây cũng là hướng phát triển quan trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực ngành Y nước ta trong thời gian tới”, thầy Khải bày tỏ.
Trong khi đó, theo thầy Lê Viết Nho – Hiệu trưởng Trường Y Dược, Đại học Đà Nẵng, việc đưa bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I và chuyên khoa II vào khung năng lực trình độ quốc gia là hợp lý, nhằm tránh gây thiệt thòi cho người học.
Thầy Nho cho rằng, việc gọi các chương trình này là “đào tạo hành nghề” là chưa thật chuẩn, bởi bản chất đây là những chương trình đào tạo nâng cao trình độ. Do đó, nếu không được công nhận trong khung trình độ quốc gia sẽ tạo cảm giác thiếu công bằng đối với đội ngũ bác sĩ chuyên khoa. Hơn nữa, trong các chương trình chuyên khoa I và chuyên khoa II vốn có nhiều học phần tương đồng với chương trình thạc sĩ và tiến sĩ y khoa.
Ở một số quốc gia trên thế giới như Hàn Quốc, người học sau khi tốt nghiệp bác sĩ đa khoa sẽ thi chứng chỉ hành nghề rồi tiếp tục học lên bác sĩ chuyên khoa; thời gian đào tạo chuyên khoa phụ thuộc vào từng chuyên ngành. Trong quá trình học chuyên khoa, nhiều bác sĩ cũng cũng đồng thời theo học chương trình nghiên cứu sinh, đặc biệt là đối với những người công tác tại các bệnh viện trường đại học.
Tuy nhiên, thầy Nho cũng lưu ý, việc xếp bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ chuyên khoa II vào khung trình độ quốc gia không đồng nghĩa với việc mặc nhiên coi bác sĩ chuyên khoa I là thạc sỹ hay bác sĩ chuyên khoa II là tiến sĩ. Theo đó, cần mở ra cơ chế liên thông rõ ràng như người có bằng bác sĩ chuyên khoa II phải đáp ứng thêm những tiêu chí gì để trở thành tiến sĩ y khoa. Mô hình này đã được nhiều nước áp dụng nên Việt Nam nếu triển khai cũng không gặp trở ngại lớn.











