Đượm tình người làng Cự Lộc

Có lịch sử hằng trăm năm, làng Cự Lộc xưa thuộc xã Đại Đồng, tổng Hành Vĩ, huyện Hoằng Hóa, nay là thôn 2 Hồng Thái, xã Hoằng Hóa vẫn giữ được nét đẹp vùng quê ngay giữa ồn ào phố thị. Bởi 'dù ai đi bất kỳ đâu khi trở về cũng mong muốn được nhìn thấy gốc đa, giếng làng, vào đình thắp một nén nhang thơm', ông Trương Văn Thọ, bí thư chi bộ thôn chia sẻ.

Đình làng Cự Lộc - nơi lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử của người làng Cự Lộc (nay là thôn 2 Hồng Thái).

Đình làng Cự Lộc - nơi lưu giữ giá trị văn hóa - lịch sử của người làng Cự Lộc (nay là thôn 2 Hồng Thái).

Từ thế kỷ XIII, Đại Đồng trang đã xuất hiện nhiều người đến sinh cơ lập nghiệp. Cái tên Đại Đồng là sự khẳng định đây là làng lớn, dân cư chủ yếu sống bằng nghề làm ruộng (điền trang), đồng thời còn thể hiện tinh thần đoàn kết của người dân trong xã. Tư liệu tộc phả của các dòng họ lớn và sự tích đền Thánh Cả đã khẳng định, những người thuộc dòng họ Lê, họ Nguyễn đã có mặt đầu tiên trên mảnh đất này; về sau có sự góp mặt của họ Trương, họ Hoàng và chừng 20 dòng họ khác.

Kể từ thời nhà Trần, Đại Đồng trang được chia thành 4 làng nhỏ, gồm: Cự Lộc, Hòa Diên, Thanh Ngoạn, Phú Vinh. Trong đó Cự Lộc còn được gọi là xóm Cả.

Như bao làng quê Việt Nam, làng Cự Lộc trước đây bao quanh là những lũy tre xanh, cùng sân đình, giếng nước, cây đa. Không chỉ làng Cự Lộc mà cả 3 làng Hòa Diên, Thanh Ngoạn, Phú Vinh, dòng họ nào cũng lấy ngày rằm tháng 11 âm lịch hằng năm làm ngày giỗ tổ, nhớ về cội nguồn. Có lẽ đây là khoảng thời gian tiết trời mát mẻ, mùa màng thu hoạch xong nên thuận lợi, phù hợp cho việc cúng tế, sửa sang phần mộ.

Sách Lịch sử Đảng bộ và phong trào cách mạng của Nhân dân xã Hoằng Đồng (1930-2005) có ghi: Tập tục cúng họ của người dân ở đây rất vui và cũng rất riêng biệt. Các dòng họ tổ chức giết bò, mổ lợn, đồ xôi và cùng hát ca phường bội. Phần nghi lễ luôn diễn ra trang nghiêm, tiếng trống, tiếng chiêng sôi động một vùng.

Để nói về người khai cư lập ấp thì sử làng Cự Lộc khẳng định công lớn thuộc về ông Nguyễn Công Thành và ông tổ họ Lê. Nhưng người trở thành Thành hoàng của làng Cự Lộc lại là bà Ngô Thị - con gái nuôi của ông Nguyễn Công Thành. Bà là người phụ nữ hiền thục, đoan trang, đẹp người, đẹp nết, lại giỏi nghề canh cửi, trồng dâu nuôi tằm, quay xa kéo sợi. Chồng bà có tên là Đờn - khôi ngô tuấn tú, sức khỏe hơn người.

Sách Địa chí Văn hóa Hoằng Hóa (NXB Khoa học xã hội Việt Nam, 2000) đã viết: Ông Tướng Đờn trong một lần cầm quân đi đánh giặc Nguyên - Mông. Mặc dù ông đã tả xung hữu đột nhưng quân giặc quá đông và rất hung hãn, ông bị vây hãm nhiều ngày, lương thực lại cạn kiệt, quân lính bị tiêu hao quá nhiều, tình thế thật nguy cấp. Tin dữ truyền đi rồi bay về tới quê nhà (làng Đại Đồng). Nhận được tin, bà bồn chồn lo lắng cho chồng, cũng đúng vào thời điểm bà mang thai cận kề ngày sinh nở. Trong lúc tâm trạng bất an sau một cơn đau dữ dội, bà đã sinh ra được bốn người con trai, rồi tắt thở.

Bốn người con trai của ông bà được dân làng chăm sóc nuôi dưỡng khôn lớn, khỏe mạnh. Ông Đờn đặt tên cho những đứa con là: Trường, Vũ, Chung, Minh (với ý nghĩa là tiếng chuông vang lên giữa chiến trường). Trở lại triều đình, vua biết tin đã ban phúc thần cho vợ ông hai chữ “Nương Nương” được hậu duệ thờ cúng muôn đời. Từ đó bà được gọi là: Ngô Thị Nương Nương. Về phần 4 người con của ông bà, lớn lên cũng đi đánh giặc. Sau các ông lại trở về Đại Đồng trang và lập ra bốn làng, vì thế khi mất, mỗi làng xây nghè, xây đình thờ một ông.

Lại nói về bà Ngô Thị Nương Nương, bà còn truyền cho dân làng nghề dệt vải, trở thành bà tổ nghề vải. Nhắc đến chuyện về bà, người làng Cự Lộc xưa vẫn gọi bằng một cái tên rất thân thuộc: Bà Cả.

Trong tâm khảm của các thế hệ người dân Cự Lộc nói riêng, Đại Đồng nói chung bà thực sự đã hiển thánh, là phúc thần của làng, luôn linh ứng để cứu giúp người dân. Là nhân vật lịch sử có thật, nhưng vì sự yêu mến của Nhân dân mà chuyện về bà được thêu dệt thành truyền thuyết.

Tưởng nhớ bà, Nhân dân đã lập đền thờ ngay chính nơi bà hóa. Sách Lịch sử Đảng bộ và phong trào cách mạng của Nhân dân xã Hoằng Đồng, chép rằng: Đến đời vua Tự Đức ngôi đình được trùng tu rất lớn và đẹp, xây dựng theo kiến trúc cổ. Cột dựng đều là gỗ lim rất to. Bên ngoài là những bức chạm trổ hoa văn chủ yếu hình long - ly - quy - phượng.

Một góc thôn 2 Hồng Thái, xã Hoằng Hóa.

Một góc thôn 2 Hồng Thái, xã Hoằng Hóa.

“Người dân làng Cự Lộc chúng tôi tự hào vì thế hệ ông cha đã giữ lại cho con cháu ngôi đình bề thế. Những năm chiến tranh, nơi đây là kho dự trữ lương thực quốc gia. Sau khi xã Hoằng Đồng thành lập, đình làng trở thành hội trường chính để chính quyền và Nhân dân tổ chức các hoạt động, hội nghị quan trọng”, ông Trương Văn Thọ giới thiệu.

Hằng năm, vào ngày mùng 10 tháng Giêng, Nhân dân làng Cự Lộc lại tổ chức lễ hội cúng tế bà. Theo tục lệ kết chạ, cứ 3 năm, 3 làng Hòa Diên, Thanh Ngoạn, Phú Vinh đến gửi kỵ làng Cự Lộc. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày, những ngày này dân làng gọi là ngày hội “Hiếu thảo – Hòa thuận”.

“Tiếc là đến nay lễ hội không còn được tổ chức với quy mô lớn như thế và ý nghĩa của lễ hội cũng có phần thay đổi. Song, văn hóa làng thì mãi còn được cháu con giữ gìn. Chúng tôi tự hào là người Hoằng Đồng trước đây, mảnh đất có 140 liệt sĩ, 14 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và gần 50 thương binh... Đến nay, sau khi chính quyền 2 cấp đi vào hoạt động, chúng tôi trở thành người dân của xã Hoằng Hóa rộng lớn với bề dày truyền thống văn hóa lịch sử”, ông Trương Văn Thọ cho biết.

Làng Cự Đồng xưa, nay là thôn 2 Hồng Thái có 320 hộ dân với gần 1.100 nhân khẩu. Người dân chủ yếu là làm thợ và kinh doanh dịch vụ. Trong thôn có khoảng 100 người làm thợ xây. Thợ Cự Lộc làm không hết việc bởi bàn tay khéo léo và đức tính chịu khó, chăm chỉ. Ngoài ra, hơn 120 người trẻ thì đi làm công nhân ở các nhà máy. Vì thế người dân có thu nhập ổn định, đầu tư cho con cái học nhiều hơn.

Đi từng ngõ xóm, nhìn những ngôi nhà to rộng mọc lên, mới thấy rõ sự phát triển về kinh tế của từng hộ dân trên đất làng Cự Lộc xưa, thôn 2 Hồng Thái nay. Nhưng neo giữ hồn quê vẫn là những chuyện xưa tích cũ, là sự trầm mặc của ngôi đình, là dáng hình của những cụ bà nhai trầu bỏm bẻm. Để rồi, ai đi xa cũng nhớ về quê nhà, mộc mạc mà đượm tình.

Bài và ảnh: Chi Anh

Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/duom-tinh-nguoi-lang-cu-loc-40013.htm