Giải pháp nào cho nông dân trước 'cơn bão' thịt heo nhập khẩu?
Nếu tình trạng nhập khẩu thịt heo không được kiểm soát chặt chẽ, giá heo hơi trong nước sẽ khó phục hồi, gây tổn thất nghiêm trọng cho người chăn nuôi.
Theo số liệu của Cục Hải quan, trong tám tháng đầu năm 2025, lượng thịt heo đông lạnh nhập khẩu đã tăng gần 67% so với cùng kỳ. Điều này đang tác động ra sao đến thị trường và hàng triệu hộ chăn nuôi trong nước?
Báo Pháp Luật TP.HCM đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Kim Đoán, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai, để làm rõ vấn đề này.

Ông Nguyễn Kim Đoán, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai
Truyền thông chưa đầy đủ khiến lượng heo nhập khẩu tăng
- Phóng viên: Thưa ông, đâu là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng Việt Nam, một quốc gia có ngành chăn nuôi heo phát triển, lại phải nhập khẩu lượng lớn thịt heo trong thời gian qua?
+ Ông Nguyễn Kim Đoán: Theo thống kê, lượng heo đông lạnh nhập khẩu tăng hơn 60% so với cùng kỳ. Nguyên nhân xuất phát từ việc thiệt hại do dịch tả heo châu Phi (ASF) gây ra. Nhiều nhà nhập khẩu đã nhận định nguồn cung sẽ sụt giảm nghiêm trọng như giai đoạn năm 2020. Điều này dẫn đến chủ trương cho phép nhập khẩu thịt heo nhằm bình ổn thị trường.
Tuy nhiên, Cục Chăn nuôi sau đó đánh giá lại và nhận định rằng dịch ASF chủ yếu gây thiệt hại cho các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, còn tổng đàn heo trong nước vẫn dồi dào, đủ đáp ứng nhu cầu.
Cùng lúc đó, một nghịch lý khác xảy ra là nhiều trang trại trước đây giữ heo lại để chờ giá tốt hơn, nay lại xuất chuồng ồ ạt khiến giá heo hơi xuống thấp (dưới 55.000 đồng/kg, thậm chí 51.000-52.000 đồng/kg), khiến người chăn nuôi càng thua lỗ nặng.
- Trong xu hướng hội nhập quốc tế, hoạt động nhập khẩu là tất yếu, điều này đang tạo ra những tác động nào đến người chăn nuôi tại Đồng Nai nói riêng và cả nước nói chung, thưa ông?
+ Nếu tình trạng nhập khẩu thịt heo không được kiểm soát chặt chẽ, giá heo hơi trong nước sẽ không thể phục hồi, gây tổn thất nghiêm trọng cho người chăn nuôi.
Người chăn nuôi thậm chí còn ví von thịt heo đông lạnh nhập khẩu giá rẻ như một loại "dịch giá", bên cạnh dịch bệnh trên gia súc, bởi mức tăng sản lượng nhập khẩu gần 67% trong tám tháng là quá lớn.
- Nhiều ý kiến cho rằng do quy mô chăn nuôi heo của Việt Nam nhỏ lẻ nên khó cạnh tranh với hàng nhập khẩu, đâu là những yếu tố tạo ra sự chênh lệch này?
+ Chúng ta không thể nói quy mô chăn nuôi heo của Việt Nam nhỏ. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp (DN) trong nước có trình độ kỹ thuật, công nghệ không thua kém các nước phát triển để tạo ra năng suất tốt nhất. Tuy nhiên, mấu chốt nằm ở chỗ hơn 70% nguyên liệu thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu, trong khi chi phí này chiếm trên 70% giá thành sản xuất.
Hệ quả là giá thành phẩm trong nước cao hơn 20%-30% so với thịt heo chính phẩm nhập khẩu. Đây là yếu tố cốt lõi khiến chúng ta yếu thế trong cạnh tranh.
Hơn nữa, các DN nước ngoài còn có nhiều phương thức để hạ giá bán khi đưa sản phẩm vào Việt Nam, càng gây thêm áp lực cho ngành chăn nuôi heo nội địa. Các cơ quan quản lý nhà nước cần nhận diện rõ vấn đề này để có chính sách hỗ trợ sản xuất trong nước.
- Vậy theo ông, cần có những hỗ trợ cụ thể nào về chi phí đầu vào?
+ Hiện nay, thuế nhập khẩu hầu hết nguyên liệu thức ăn chăn nuôi đã về 0%, chỉ còn đậu nành là 2%. Vấn đề nhức nhối nằm ở chi phí vận chuyển và lợi nhuận của các nhà nhập khẩu, chính những yếu tố này đã đẩy giá thức ăn chăn nuôi lên cao.
Có một sự khác biệt lớn, một DN lớn nhập khẩu trực tiếp nguyên liệu và sản xuất theo chuỗi khép kín, chủ động con giống, có thể đạt giá thành chỉ hơn 40.000 đồng/kg heo hơi. Trong khi đó, các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ phải mua thức ăn với giá cao, khiến giá thành tối thiểu đã là 55.000 đồng/kg.
Nếu tính thêm chi phí con giống khoảng 1 triệu đồng/con, tổng giá thành có thể lên đến 65.000 đồng/kg. Nhưng hiện nay, người chăn nuôi heo đang phải bán dưới giá thành, đó là trong điều kiện lý tưởng đàn heo khỏe mạnh 100%.
Còn nếu rủi ro ảnh hưởng dịch bệnh làm hao hụt 10% hay 20% tổng đàn, giá thành sản xuất trên mỗi con heo sống còn lên cao hơn nữa. Điều này có thể khiến người nông dân vẫn lỗ nặng ngay cả khi giá heo hơi trên thị trường tăng do khan hiếm.

Thịt heo đông lạnh bày bán ở siêu thị. Ảnh: TÚ UYÊN
Cần đánh giá nguồn cung và xem xét chính sách nhập khẩu
- Vậy giải pháp nào để tháo gỡ khó khăn trước mắt cho người chăn nuôi không, thưa ông?
+ Người chăn nuôi hiện đang thua lỗ. Thịt heo giá rẻ nhập khẩu tràn lan, áp lực lại đè nặng lên họ. Do đó, mấu chốt là cơ quan nhà nước phải kiểm soát nhập khẩu một cách hợp lý để bảo vệ giá cả cho sản phẩm trong nước.
Nếu tiếp tục bị thịt heo nhập khẩu cạnh tranh gay gắt, gần 10 triệu hộ chăn nuôi sẽ đối mặt với vô vàn khó khăn, không thể sản xuất bền vững.
- Mô hình liên kết chuỗi giá trị từ trang trại đến bàn ăn đã được đề cập nhiều. Theo ông, đây có phải là giải pháp hỗ trợ hiệu quả?
+ Liên kết chuỗi là một mô hình rất hay nhưng nhiều năm qua vẫn chưa được triển khai sâu rộng. Một vài DN đã thực hiện nhưng quy mô còn hạn chế, chưa thể nhân rộng như các nước. Lý do là vì ngay cả các chuỗi liên kết này cũng đang bị tác động tiêu cực bởi thịt heo nhập khẩu.
Thực tế, đã có DN ký hợp đồng bao tiêu cho nông dân với giá 60.000 đồng/kg. Nhưng khi giá thị trường lao dốc xuống 50.000 đồng/kg, cộng thêm áp lực từ thịt đông lạnh nhập khẩu có giá chỉ bằng một nửa đến hai phần ba, DN phải bù lỗ nặng và không thể trụ nổi. Vì vậy, họ không còn dám ký kết dài hạn.
- Vậy Hiệp hội có những đề xuất nào để đảm bảo sự phát triển ổn định cho ngành chăn nuôi?
+ Thứ nhất, người chăn nuôi cần được hỗ trợ về khoa học kỹ thuật để phòng chống dịch bệnh hiệu quả. Thứ hai, và cũng là quan trọng nhất, các cơ quan hoạch định chính sách phải xây dựng hàng rào kỹ thuật để bảo vệ nền sản xuất trong nước.
Trước mắt, cơ quan chức năng cần đánh giá lại chính xác mức độ thiệt hại của tổng đàn heo sau đợt dịch tả heo châu Phi vừa qua.
Có thể hình dung, tổng đàn heo nái của Việt Nam khoảng 3,5 triệu con. Nếu mỗi nái sản xuất 2,2 lứa/năm, tương đương khoảng 24 con heo thịt/năm, thì chúng ta sẽ có gần 84 triệu con heo thịt mỗi năm. Với dân số 100 triệu người, nguồn cung nội địa vẫn rất dồi dào.
Khi đã xác định rõ nguồn cung không thiếu, chúng ta cần xem xét lại chính sách nhập khẩu. Đối với các hạn ngạch đã ký kết, cần điều tiết hợp lý cho giai đoạn cuối năm để phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường. Phải tránh tuyệt đối việc đánh giá sai lệch về cung - cầu, dẫn đến quyết định "rộng cửa" nhập khẩu, gây tổn hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi heo trong nước.
Xin cảm ơn ông!
Tám tháng đầu năm nay, Việt Nam đã nhập khẩu 623,6 ngàn tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 1,26 tỉ USD.
Các chủng loại thịt Việt Nam chủ yếu nhập khẩu gồm thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của gia cầm, heo, bò, trâu đông lạnh; thịt trâu tươi đông lạnh.
Riêng thịt heo đông lạnh, Việt Nam nhập khẩu 102,1 ngàn tấn thịt heo đông lạnh, với trị giá 274,78 triệu USD, tăng 66,7% về lượng và tăng 95,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Giá trung bình nhập khẩu thịt heo đông lạnh về Việt Nam ở mức 2.688 USD/tấn, tăng 17,17% so với cùng kỳ năm ngoái.
Ghi nhận tại một số siêu thị sườn vai heo đông lạnh 79.000 đồng/kg, móng giò heo đông lạnh 49.000 đồng/kg, bắp giò heo đông lạnh 79.000 … Trong khi đó, thịt vai heo VietGAP giá 106.000-118.000 đồng/kg, móng heo VietGAP 122.000 đồng/kg, bắp giò heo VietGAP giá 124.000 đồng/kg...












