Giữ dòng nước sạch để nâng cao đời sống người dân nông thôn
Trong bộ tiêu chí nông thôn mới, nước sạch và vệ sinh môi trường là yếu tố cốt lõi phản ánh chất lượng sống và mức độ phát triển bền vững của nông thôn.
Nước sạch là nhu cầu thiết yếu mà còn là nền tảng của sức khỏe cộng đồng, chất lượng sống nông thôn và môi trường an toàn cho sản xuất nông nghiệp. Trong bối cảnh phát triển kinh tế xanh, sạch, tuần hoàn và thích ứng với biến đổi khí hậu, đảm bảo cấp nước an toàn cho người dân vùng nông thôn càng trở nên cấp thiết.
Theo Bộ tiêu chí quốc gia giai đoạn 2021 - 2025, xã đạt chuẩn nông thôn mới phải có ít nhất 65% hộ dân sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; xã nông thôn mới nâng cao yêu cầu tỷ lệ này đạt từ 80%. Đây là tiêu chí mang tính nền tảng, tác động trực tiếp đến sức khỏe, sinh kế và phát triển bền vững của cộng đồng.
Ông Giáp Mai Thùy, Phó trưởng phòng Quản lý Nước sạch nông thôn, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết: "Công tác cấp nước sạch nông thôn giai đoạn vừa qua đã góp phần quan trọng giúp đạt được các chỉ tiêu trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới (2021 - 2025)".

Khi người dân có điều kiện tiếp cận nguồn nước an toàn, họ có thể yên tâm phát triển kinh tế, chăm lo sức khỏe và bảo vệ môi trường sống.
Đến nay, khoảng 68% hộ dân nông thôn trên cả nước được sử dụng nước đạt quy chuẩn, trong đó 60% được cấp nước từ các công trình tập trung và 8% từ hệ thống cấp nước hộ gia đình. Tỷ lệ này tăng khá nhiều so với giai đoạn trước, cho thấy những nỗ lực lớn của các địa phương và ngành nông nghiệp trong mở rộng mạng lưới cấp nước.
Công tác chuyển đổi số cũng đang được đẩy mạnh trong quản lý cấp nước nông thôn. Theo ông Giáp Mai Thùy, các địa phương đã triển khai nhiều giải pháp công nghệ như hệ thống giám sát chất lượng nước trực tuyến, ứng dụng bể lọc tiếp xúc sinh học để xử lý nguồn nước nhiễm hữu cơ và amoni, sử dụng vật liệu lọc đa tầng và nguồn năng lượng tái tạo trong vận hành.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay vẫn là nguồn vốn. Trong giai đoạn 2020 - 2024, tổng vốn đầu tư cho cấp nước sạch nông thôn mới đạt khoảng 13.400 tỷ đồng, trong khi nhu cầu cho giai đoạn 2021 - 2025 lên tới 29.200 tỷ đồng, tức còn thiếu gần 16.000 tỷ đồng.
Khoảng cách này cho thấy nhu cầu đầu tư hạ tầng nước sạch nông thôn đang ngày càng cấp thiết, nhất là trong bối cảnh nhiều công trình xây dựng từ giai đoạn trước đã xuống cấp, không còn đáp ứng được quy mô dân cư và nhu cầu thực tế.
Theo thống kê của Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, hàng trăm công trình cấp nước tập trung tại các vùng nông thôn, miền núi và ven biển đang trong tình trạng hoạt động kém hiệu quả. Nhiều hệ thống chưa được duy tu, bảo dưỡng định kỳ, thiết bị lạc hậu, trong khi nguồn thu từ phí sử dụng nước không đủ để tái đầu tư. Không ít nơi, công trình được xây xong nhưng vận hành cầm chừng do thiếu kinh phí hoặc nhân lực kỹ thuật, khiến tỷ lệ người dân thực sự được sử dụng nước đạt chuẩn vẫn thấp hơn so với mục tiêu đề ra.
Nguồn vốn hạn chế khiến nhiều công trình cấp nước chưa được mở rộng kịp với nhu cầu tăng dân số và sản xuất nông nghiệp. Một số địa phương, nhất là vùng cao và hải đảo, vẫn chưa có hệ thống cấp nước tập trung, người dân chủ yếu sử dụng nước giếng khoan, nước mưa hoặc nước suối, những nguồn dễ bị nhiễm bẩn bởi chất thải sinh hoạt, thuốc bảo vệ thực vật hoặc ô nhiễm hữu cơ. Ở các khu vực này, việc lấy mẫu kiểm định chất lượng nước định kỳ còn khó khăn, gây lo ngại về an toàn sức khỏe, đặc biệt trong mùa khô hạn kéo dài.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư, ông Giáp Mai Thùy cho rằng cần hoàn thiện cơ chế, chính sách về cấp nước nông thôn, nhất là trong huy động và sử dụng vốn. Nhà nước nên ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình cấp nước quy mô lớn, hiện đại, có khả năng cung cấp ổn định cho nhiều xã, liên xã, đặc biệt ở những vùng khan hiếm nước, vùng hạn hán, miền núi và hải đảo.
Tại cấp địa phương, việc hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý cấp nước nông thôn theo mô hình chính quyền hai cấp là cần thiết nhằm thống nhất đầu mối, đảm bảo vận hành bền vững. Đồng thời, cần rà soát, điều chỉnh giá nước phù hợp với chi phí thực tế, khuyến khích xã hội hóa đầu tư và duy trì chất lượng dịch vụ.
Ông cũng đề xuất điều chỉnh giá nước hợp lý, phản ánh đúng chi phí sản xuất, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia, đồng thời bảo đảm người dân nông thôn, đặc biệt là hộ nghèo, cận nghèo vẫn có thể tiếp cận nguồn nước sạch với giá phù hợp.
Song song đó, cần sớm ban hành các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cấp nước nông thôn, vốn còn ít hấp dẫn về lợi nhuận nhưng có ý nghĩa lớn về xã hội.











