Gỡ nút thắt về giống và công nghệ để ngành dừa phát triển
Dù đạt giá trị xuất khẩu ấn tượng, ngành dừa Việt Nam vẫn đối mặt nhiều điểm nghẽn về giống, quy mô sản xuất và công nghệ chế biến, đòi hỏi những giải pháp đồng bộ từ chính sách, khoa học - công nghệ đến liên kết vùng nguyên liệu.
Thách thức của ngành dừa
Theo bà Nguyễn Thị Kim Thanh, Chủ tịch Hiệp hội Dừa Việt Nam, đến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dừa và chế biến từ dừa tiến sát mốc 1,15 tỷ USD, khẳng định tiềm năng to lớn của loại cây truyền thống này trong cơ cấu nông nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, từ tháng 1/2024, cây dừa đã chính thức được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đưa vào Đề án Phát triển cây công nghiệp chủ lực quốc gia - một bước ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, ngành dừa vẫn đối mặt với nhiều điểm nghẽn về giống, quy mô sản xuất và công nghệ chế biến. Ông Nguyễn Đa Mốt, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đất Quảng Star cho biết, doanh nghiệp khi triển khai vùng nguyên liệu tại Quảng Nam và Quảng Ngãi thường gặp khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng giống. “Cây đầu dòng một nơi, cây giống một nơi, dẫn tới chất lượng không đồng nhất, ảnh hưởng năng suất và chất lượng đầu ra”, ông chia sẻ.
Ông Huỳnh Khắc Nhu, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Trà Bắc (Trabaco) nhận định, dù Việt Nam chỉ chiếm 2% diện tích trồng dừa toàn cầu, nhưng giá trị xuất khẩu lại khá lớn nhờ hàm lượng chế biến cao. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu trong nước vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp FDI và nội địa. “Năng suất dừa Việt Nam hiện chỉ đạt khoảng 90 trái/cây, thấp hơn nhiều so với Malaysia – nơi trồng dày 200 - 250 cây/ha, đạt tới 150 trái/cây”, ông Nhu nói.
Theo ông Văn Hữu Huệ, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Vĩnh Long, quy mô sản xuất dừa trong nước vẫn manh mún, trung bình mỗi hộ chỉ canh tác 0,3-0,4 ha, trong đó chỉ 30% diện tích có liên kết sản xuất. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn và sâu bệnh đang tác động mạnh đến năng suất và chất lượng trái dừa. “Công nghệ bảo quản, chế biến sâu còn lạc hậu; giá nguyên liệu biến động khiến doanh nghiệp rủi ro cao. Thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc ngày càng đặt ra yêu cầu khắt khe, buộc ngành dừa phải đổi mới toàn diện”, ông nhận định.
Ở góc độ kỹ thuật, bà Huỳnh Thị Ngọc Diễm, Phó Giám đốc Trung tâm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phía Nam cho rằng, vùng nguyên liệu dừa ĐBSCL còn thiếu đồng đều, hệ thống tưới tiêu lạc hậu, nông dân ít được tập huấn kỹ thuật; trong khi đó, các loại sâu bệnh mới như đuông dừa, sâu đầu đen, bọ cánh cứng đang hoành hành, làm tăng mạnh chi phí phòng trừ.

Ngành dừa Việt Nam bứt phá từ cây truyền thống đến ngành hàng tỷ đô
Từ công nghệ sinh học đến kinh tế tuần hoàn
Để tạo đột phá cho ngành, ông Nguyễn Ngọc Trai, đại diện Viện Dừa ĐBSCL nhấn mạnh, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là nuôi cấy mô và sinh học phân tử trong chọn tạo giống dừa năng suất cao, kháng bệnh và thích ứng biến đổi khí hậu. Song song với đó, cần nghiên cứu phòng trừ sâu bệnh theo hướng an toàn sinh học, tăng cường chế biến sâu để khai thác các hoạt chất quý trong dừa sáp, nâng giá trị sản phẩm và phát triển chuỗi sản xuất bền vững. Cũng theo ông Trai, ngành dừa có thể ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giám sát vườn trồng, phát hiện sớm sâu bệnh, dự báo thời tiết và môi trường, từ đó tối ưu năng suất và tiết kiệm chi phí. Đồng thời, việc phát triển nông nghiệp tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm từ chế biến dừa để sản xuất phân bón hữu cơ, sẽ giúp hình thành chuỗi khép kín xanh và hiệu quả.
Về phía địa phương, ông Văn Hữu Huệ đề xuất Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng UBND tỉnh Vĩnh Long xây dựng bản đồ thổ nhưỡng và cơ sở dữ liệu vùng dừa, làm nền tảng cho quy hoạch vùng nguyên liệu, tăng năng suất và khả năng cạnh tranh.
Bà Huỳnh Thị Ngọc Diễm thì đưa ra các nhóm giải pháp trọng tâm gồm ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, cảm biến độ ẩm, đào tạo nông dân kỹ thuật canh tác hiện đại, liên kết sản xuất – doanh nghiệp – hợp tác xã, thúc đẩy canh tác hữu cơ và sinh học, xây dựng thương hiệu và quảng bá quốc tế cho dừa ĐBSCL.
Có một thực tế là ngành dừa Việt Nam chưa tạo được giống đột phá trong suốt 10 năm qua, trong khi nhu cầu giống chất lượng cao ngày càng cấp thiết. “Phát triển cây dừa hiện nay phải gắn với công nghệ sinh học. Chỉ có kỹ thuật nuôi cấy mô mới bảo đảm tính đồng nhất và năng suất ổn định”, PGS.TS. Nguyễn Phương Thảo (Đại học Quốc tế – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) khẳng định.
Còn PGS.TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch bổ sung, để nâng cao giá trị gia tăng, cần xác định rõ sản phẩm chủ lực của từng vùng sinh thái, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp lựa chọn công nghệ chế biến đạt chuẩn quốc tế. Ông kiến nghị Nhà nước tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, kết nối hợp tác quốc tế, và triển khai các nhiệm vụ khoa học – công nghệ nhằm hoàn thiện chuỗi giá trị từ giống, sản xuất đến tiêu thụ.













