Gùi xưa kể chuyện
HNN - Niềm vui của một nghệ nhân đan lát là mỗi ngày còn thấy bà con đeo gùi lên nương, còn thấy thanh niên nhớ đến chiếc xà lét của cha ông mình.

Tỉ mẩn từng mối đan
Chiều dần buông trên thôn A Tin (xã Nam Đông), khói bếp bảng lảng vắt qua những ngọn cau cao vút. Trước hiên nhà, ông Trần Văn Hách (65 tuổi), người Cơ Tu đang miệt mài bên chồng mây rừng. Đôi bàn tay dẻo dai thoăn thoắt đưa lưỡi dao, tách từng sợi mây óng ả, chuẩn bị cho một chiếc gùi mới.
Ông Hách kể, nghề đan lát đã theo ông từ thuở thiếu thời, được truyền lại từ người cha. “Ngày trước, nhà nào cũng cần gùi, oi, xà lét để lên rẫy, vào rừng, ai ai cũng biết đan. Giờ thì trong thôn, trong xã chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay, rất ít người còn giữ nghề”, giọng ông trầm ngâm.
Trong số những vật dụng ông Hách làm ra, gùi và xà lét là đặc trưng nhất. Với người Cơ Tu, gùi gắn bó từ nương rẫy đến sinh hoạt thường ngày. Gùi lớn để đựng sắn, ngô, lúa, củi…, gùi nhỏ để phụ nữ mang cơm mang nước. Còn đàn ông khi lên rẫy thì không thể thiếu chiếc xà lét để dắt dao, dắt rựa. Xà lét cũng là loại đòi hỏi nhiều công phu nhất, bởi phải ép thành ba ngăn riêng biệt. “Nếu tập trung đan, mười ngày mới xong một cái xà lét. Nhưng có cái tôi phải làm đến nửa năm, bởi còn tính cả thời gian vào rừng lấy mây. Mây mang về phải vót kỹ, ngâm nước, rồi phơi cho dẻo. Khi đan xong lại phải treo lên giàn bếp cho ám khói, mới để lâu, chống được mối mọt”, ông Hách chia sẻ.
Công phu là thế, nên giá mỗi chiếc xà lét cũng không hề rẻ. Với những người mua xà lét để mang đi nương, đi rẫy, ông Hách bán với giá tầm 2,5 triệu đồng. Người Cơ Tu có tập tục chôn theo người đã khuất những vật dụng quen thuộc hàng ngày. Những chiếc xà lét đan dành cho người sang bên kia thế giới, ông Hách thường chỉ lấy giá tượng trưng, như một tấm lòng gửi gắm cùng người nằm xuống.
Các loại gùi, oi, xà lét đều được ông Hách khéo léo đan từ mây rừng. Ông kể, theo quan niệm của người Cơ Tu, phải vào rừng hái mây vào cuối tháng, khi thân mây săn chắc nhất, đan lát mới bền lâu, không bị mối mọt. Còn khi bắt tay vào đan gùi, đan oi thì nhất định phải chọn ngày đầu tháng, để lấy cái may mắn: khi đi ruộng soi ếch sẽ được nhiều, đi suối bắt cá cũng đầy oi.
Ở tuổi xế chiều, đôi chân ông Hách đã không còn đủ khỏe để lên nương rẫy như trước. Gia đình ông có một sào ruộng cho đủ hạt thóc ăn quanh năm, thêm hai sào vườn trồng dứa, mít, cau, chuối, cùng ít sắn trên nương, khéo vun vén cũng đủ cho bữa cơm gia đình. Khi việc đồng áng thảnh thơi, ông lại men theo lối rừng tìm mây, rồi trở về ngồi bên hiên nhà đan từng chiếc gùi, chiếc oi, đôi tay cần mẫn gửi vào đó hơi thở của núi rừng.
Với ông Hách, nghề đan lát giúp ông có thêm chút thu nhập để trang trải cuộc sống, cũng là cách ông níu giữ ký ức của cha ông, của cả cộng đồng. Từ thuở nhỏ, những cậu bé Cơ Tu đã được cha mình kiên nhẫn cầm tay chỉ từng đường dao, mối đan. Nhờ vậy, đôi bàn tay họ sớm trở nên thuần thục, biến sợi mây, sợi tre thành nong, nia, gùi, giỏ... gắn bó với đời sống thường ngày. Trải qua bao thế hệ, nghề đan lát đã đi cùng người Cơ Tu, trở thành nét văn hóa riêng của đại ngàn.
Dù đôi tay người Cơ Tu vẫn còn giữ kỹ thuật đan lát tinh xảo, tạo nên bao sản phẩm vừa bền chắc, vừa đẹp mắt, nhưng nghề truyền thống ấy đang ngày càng mai một. Sản phẩm làm ra ngày càng khó tiêu thụ, lớp trẻ lại ít mặn mà nối nghề, để rồi từng nong lạt, mối đan có nguy cơ chỉ còn lại trong ký ức của những nghệ nhân tóc bạc.
Trong góc nhà ông Hách, hơn hai mươi chiếc gùi, oi, xà lét nằm xếp chồng, phủ lên mình lớp khói bếp của thời gian. Ông bảo, khi có người đặt hàng thì đan để bán. Còn lại ông đan để làm quà tặng anh em, bà con, bạn bè, thông gia… như một cách giữ nghề, giữ tình.
Thi thoảng, khi các trường học hay thôn bản tổ chức hội diễn văn nghệ cần đạo cụ, họ lại tìm đến nhà ông Hách mượn gùi, mượn oi để mang lên sân khấu. “Thấy tụi nhỏ đeo gùi, mang oi trong những điệu múa dân gian, lòng tôi vui lắm”, ông cười hiền. Rồi ông chậm rãi nói thêm: “Nghề này tuy vất vả, bán buôn chẳng được bao nhiêu, nhưng chừng nào sản phẩm còn được lớp trẻ nhớ đến, còn xuất hiện trong ngày hội, thì chừng đó vẫn chưa bị lãng quên”.
Ông Hoàng Chí Tâm, Trưởng phòng Văn hóa - Xã hội xã Nam Đông cho biết, ở nhiều bản làng, những lớp học truyền dạy cồng chiêng, đan lát, dệt zèng đã được mở. Ở đó, những nghệ nhân như ông Hách ngoài trao truyền kỹ năng, khơi dậy ký ức nghề xưa của cha ông, còn biết cách tạo ra những sản phẩm mang hơi thở truyền thống, đủ tinh tế để trở thành món quà níu chân du khách khi đến miền sơn cước.
Còn ông Hách thì nói rằng, hạnh phúc của một ông lão Cơ Tu là thấy bà con mình vẫn còn đeo gùi lên nương, còn nghe tiếng chiêng trống trong mùa lễ hội. “Khi nào rừng còn cho mây, người Cơ Tu còn dùng đồ đan lát, thì ngày đó tôi còn giữ lấy nghề của cha ông”.
Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/doi-song/gui-xua-ke-chuyen-159380.html











