Ho ra máu cần cảnh giác với giãn phế quản

Giãn phế quản là tình trạng tổn thương đường dẫn khí trong phổi (phế quản) mạn tính, dẫn đến việc thành đường thở dày lên, giãn rộng hơn bình thường và không thể khôi phục. Bệnh gây ra các triệu chứng đặc trưng là ho và khạc đờm kéo dài, nhiễm trùng hô hấp tái đi tái lại và đôi khi có ho ra máu.

Cụ ông 70 tuổi hôn mê sâu vì ho ra máu nặng do giãn phế quản

Cụ ông 70 tuổi, trú tại xã Núi Thành, TP Đà Nẵng, được đưa đến Bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam trong tình trạng hôn mê, khó thở, ho ra máu ồ ạt, suy hô hấp nặng, nồng độ oxy trong máu (SpO2) chỉ còn 65%.

Ngay khi tiếp nhận, các bác sĩ khẩn trương đặt nội khí quản, hút máu đọng hai phổi, thở máy, truyền máu và hồi sức tích cực nhằm duy trì sự sống. Kết quả chụp cắt lớp vi tính xác định bệnh nhân bị giãn phế quản khu trú tại thùy dưới phổi phải, là nguyên nhân gây ho ra máu nặng.

Sau hội chẩn đa chuyên khoa, ekip quyết định phẫu thuật nội soi cắt thùy dưới phổi phải để cầm máu và loại bỏ vùng tổn thương. Ca phẫu thuật diễn ra thành công, người bệnh hết ho ra máu, phục hồi nhanh và hiện đã được xuất viện.

Đây là trường hợp may mắn được cứu sống sau khi rơi vào hôn mê sâu vì ho ra máu nặng do giãn phế quản, nhờ phát hiện sớm và xử trí kịp thời.

Giãn phế quản do đâu?

Giãn phế quản là bệnh lý có thể gặp ở mọi lứa tuổi, từ những bệnh nhân rất trẻ cho tới người lớn tuổi.

Giãn phế quản là bệnh lý có thể gặp ở mọi lứa tuổi, từ những bệnh nhân rất trẻ cho tới người lớn tuổi.

Có nhiều nguyên nhân gây giãn phế quản trong đó thường gặp là:

Dị tật bẩm sinh

Hội chứng Kartagener: giãn phế quản lan tỏa kèm theo viêm xoang và đảo ngược phủ tạng.

Hội chứng Williams – Cambell: khuyết tật hoặc không có sụn phế quản nên phế quản phình ra khi thở vào và xẹp xuống khi thở ra.

Hội chứng Mounier – Kunhn: khí phế quản phì đại do khuyết tật cấu trúc tổ chức liên kết ở thành phế quản kèm theo giãn phế quản.

Do viêm hoại tử ở thành phế quản

Giãn phế quản sau nhiễm khuẩn phổi như lao, viêm phổi do vi khuẩn, virus, sởi, ho gà, do hít phải dịch dạ đày, hít phải khói khí độc (amoniac), do nhiễm khuẩn phế quản tái diễn.

Do xơ hóa kén (Cystic fibrosis)

Giãn phế quản gặp 50% các trường hợp xơ hóa kén, thường gặp nhất ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Giãn phế quản thường xuất hiện vào giai đoạn muộn của bệnh.

Do tắc nghẽn phế quản

Lao hạch phế quản, dị vật phế quản, u phế quản hoặc sẹo xơ gây chít hẹp phế quản. Dưới chỗ phế quản chít hẹp, áp lực nội phế quản tăng lên và dịch tiết phế quản ứ đọng gây nên nhiễm khuẩn mạn tính tại chỗ rồi phát triển thành giãn phế quản.

Tổn thương xơ u hạt co kéo thành phế quản

Lao xơ phổi, lao xơ hang, áp xe phổi mạn tính, bệnh phế nang viêm xơ hóa. Nhu mô phổi bị hóa hủy, xơ hóa dẫn đến co kéo và giãn phế quản không hồi phục. Vì đa số các trường hợp lao phổi hậu tiên phát tổn thưởng chủ yếu ở thùy đỉnh và phân thùy sau của thùy trên nên giãn phế quản thường gặp ở các vị trí này, triệu chứng hay gặp là ho ra máu.

Rối loạn thanh lọc màng nhầy nhung mao

Hội chứng rối loạn vận động nhung mao nguyên phát.

Rối loạn vận động nhung mao thứ phát do bệnh hen phế quản. Những trường hợp này, vi khuẩn thường phát triển ở đường hô hấp dưới.

Rối loạn cơ chế bảo vệ phổi.

Suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải như giảm gama globulin máu, giảm chọn lọc IgA, IgM, IgG.

Suy giảm miễn dịch mắc phải: do dùng thuốc ức chế miễn dịch, nhiễm HIV/AIDS, đa u tủy xương, bệnh bạch cầu ác tính.

Nấm phổi phế quản dị ứng do aspegillus

Đây là phản ứng miễn dịch bán chậm và lắng đọng kháng thể kết tủa (IgM, IgG) ở thành phế quản, mà hậu quả của đáp ứng miễn dịch typ III này là giãn phế quản (theo Gell-Coombs) là phát triển giãn phế quản. Đáp ứng miễn dịch quá mức cũng có thể xảy ra sau ghép phổi.

Biểu hiện giãn phế quản

Ho dai dẳng, khạc đờm mủ hàng ngày, đây là triệu chứng rất quan trọng. Khạc đờm tăng khi có bội nhiễm phế quản. Có một số trường hợp ho khan không có đờm (giãn phế quản thể khô ở thùy trên, thường sau lao phổi). Một số trường hợp có dấu hiệu của viêm đa xoang gây ra hội chứng xoang phế quản.

Đờm có 3 lớp: lớp trên là lớp bọt, lớp dưới là mủ, lớp đáy là nhầy. Đờm có thể có mùi thối khi có nhiễm khuẩn.

Ho ra máu: thể khô ho ra máu là chính mà không khạc đờm. Trẻ em ít gặp ho ra máu. Ho ra máu tái phát nhiều lần, có thể kéo dài nhiều năm. Mức độ từ nhẹ đến nặng. Ho ra máu có thể là dấu hiệu duy nhất của bệnh.

Khó thở là biều hiện cũng thường thấy, thường gặp ở những bệnh nhân có giãn phế nang kèm theo.

Đau ngực: có thể là dấu hiệu sớm của nhiễm khuẩn phế quản ở vùng giãn phế quản.

Bệnh kéo dài dẫn đến gầy sút cân, thiếu máu, mệt mỏi, ngón tay dùi trống.

Khó thở, tím nếu giãn phế quản lan tỏa hai phổi.

Tóm lại: Giãn phế quản là bệnh lý có thể gặp ở mọi lứa tuổi, từ những bệnh nhân rất trẻ cho tới người lớn tuổi. Bệnh có nhiều nguyên nhân khác nhau, việc tìm kiếm nguyên nhân gây giãn phế quản là một bước quan trọng góp phần vào việc điều trị bệnh một cách hiệu quả. Vì vậy, khi có biểu hiện bất thường cần tới cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị.

BS Nguyễn Minh Châu

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/ho-ra-maucan-canh-giac-voigian-phe-quan-169251113190643636.htm