Kháng nghị 'giữ y bản án' đã bị hủy vì nhiều vi phạm (?!)
Bản án sơ thẩm của TAND H.Bình Chánh bị hủy vì hàng loạt vi phạm về tố tụng lẫn nội dung. Quá trình giải quyết lại, Tòa án nhận thấy có dấu hiệu của tội 'cho vay lãi nặng' nên kiến nghị khởi tố hình sự. Trong khi Cơ quan điều tra đang xử lý thì bất ngờ xuất hiện kháng nghị giám đốc thẩm theo yêu cầu của vợ chồng nguyên đơn, đã bị bắt tạm giam về tội 'Lừa đảo chiếm đoạt tài sản' trong vụ án khác...
Kháng nghị, kháng cáo có căn cứ
Liên quan đến vụ "kỳ án" này, Chuyên đề (Báo) Công an TPHCM đã có nhiều loạt bài điều tra, phản ánh. Mới nhất là loạt bài 3 kỳ: Từ vụ đòi nợ hơn 790 tỷ đồng và 535 tỷ tiền lãi ở Bình Chánh: Lần theo đường dây "tín dụng đen", đăng các ngày 10, 11 và 12/6/2024.
Nguyên đơn trong vụ kiện đòi số tiền "khủng" là vợ chồng ông Cao Minh Tân (SN 1966) và bà Phạm Thị Linh Phượng (SN 1967, ngụ TPHCM). Được biết, cuối tháng 10/2022, ông Tân - bà Phượng đã bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Long khởi tố, bắt tạm giam để điều tra về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Theo Cơ quan điều tra, ông Tân - bà Phượng có hành vi giả mạo giấy tờ của các cơ quan chức năng về việc nạo vét, khai thác cát trên sông Tiền (thuộc địa bàn TP.Vĩnh Long) để lừa bán cát cho nhiều người nhằm chiếm đoạt hàng tỷ đồng.
Thông tin từ hệ thống đăng ký doanh nghiệp, ông Tân đứng tên và đại diện hàng chục doanh nghiệp có trụ sở, chi nhánh tại các tỉnh Vĩnh Long, TPHCM và nhiều tỉnh thành khác. Trong số này, có Công ty Thương mại và xây dựng Minh Linh và Công ty TNHH Đầu tư và Xây dựng Hòa Phong (Công ty Hòa Phong) liên quan đến vụ "kỳ án".
Theo đơn khởi kiện, từ năm 2013 - 2015, ông Tân và bà Phượng cho bị đơn là Công ty CP tư vấn đầu tư - xây dựng - thương mại - sản xuất Nhựt Thành ("Công ty N.T", trụ sở ấp 2, xã Bình Chánh, H.Bình Chánh) do bà Nguyễn Thị Quí làm đại diện, vay nhiều lần bằng tiền mặt. Ngày 15/01/2015, hai bên lập "giấy xác nhận tiền nợ và phương thức thanh toán nợ" ("giấy XNTN và PTTTN"), nội dung: Bà Quí xác nhận có mượn ông Tân - bà Phượng 790,433 tỷ đồng. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc Công ty N.T thanh toán hơn 1.325 tỷ đồng, gồm 790,433 tỷ đồng "nợ gốc" và 535,3 tỷ "lãi" (tạm tính đến ngày 05/11/2018).
Đại diện bị đơn trình bày: Qua giới thiệu của một lãnh đạo Agribank chi nhánh Bình Chánh, Công ty N.T có vay tiền của Công ty Hòa Phong do ông Tân làm giám đốc. Từ tháng 8/2009 - 4/2011, Công ty Hòa Phong và cá nhân ông Tân - bà Phượng đã cho Công ty N.T vay nhiều lần với tổng số tiền 89,5 tỷ đồng.
Tính đến ngày 16/7/2015, Công ty N.T đã thanh toán cho ông Tân - bà Phượng 66 lần với tổng số tiền 97,275 tỷ đồng, vượt 7,77 tỷ. Điều đó cho thấy "giấy XNTN và PTTTN" với 790,433 tỷ đồng "nợ gốc" là không có thật, mà do nguyên đơn tự tính "lãi chồng lãi" từ số khoản vay 89,5 tỷ đồng, theo kiểu "tín dụng đen".
TAND H.Bình Chánh với HĐXX do Thẩm phán Nguyễn Hoàng Sơn ngồi ghế Chủ tọa cùng 2 Hội thẩm Võ Hoàng Thu và Nguyễn Thị Nguyên, tuyên Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ("Bản án số 16") ngày 13/01/2022: Buộc Công ty N.T trả cho ông Tân - bà Phượng 790,433 tỷ đồng (nguyên đơn đã rút yêu cầu 535,3 tỷ đồng "lãi").
Bị đơn cùng hai thành viên HĐQT Công ty N.T là ông Ngô Minh Tuấn và bà Ngô Thị Ngọc Dung đã có đơn kháng cáo. Ngày 27/01/2022, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) H.Bình Chánh ký Quyết định kháng nghị, đề nghị TAND TPHCM hủy toàn bộ Bản án số 16. Kháng nghị nêu rõ: Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng (HĐ) vay tài sản, bà Loan ký vào "giấy XNTN và PTTTN" ngày 15/01/2015 với tư cách là Kế toán trưởng Công ty N.T; TAND H.Bình Chánh không đưa bà Loan vào tham gia tố tụng để làm rõ những tình tiết trong vụ án là vi phạm tố tụng.
Về nội dung: Ngoài "giấy XNTN và PTTTN" ngày 15/01/2015, nguyên đơn không cung cấp được HĐ vay tiền, chứng từ, tài liệu thể hiện việc giải ngân, giao nhận tiền... Trong khi phía bị đơn không thừa nhận có vay 790,433 tỷ đồng; "giấy XNTN và PTTTN" do ông Tân - bà Phượng lập sẵn và tổ chức cho nhóm "xã hội đen" đến Công ty N.T ép buộc bà Quí và bà Loan ký vào.
Nguyên đơn lý giải việc cho vay nhiều lần nhưng không lập thành văn bản do tin tưởng, quen biết với nhau. Lý giải này là không có căn cứ. Số tiền 790,433 tỷ đồng rất lớn, nguyên đơn cho rằng chỉ dựa trên sự tin tưởng giữa đôi bên để cho vay số tiền này là không thuyết phục. Tòa sơ thẩm căn cứ "giấy XNTN và PTTTN" ngày 15/01/2015 để xác định số nợ 790,433 tỷ đồng là không có căn cứ. Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án không đủ chứng minh số tiền mà bị đơn còn thiếu nguyên đơn là 790,433 tỷ đồng nên việc TAND H.Bình Chánh tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là chưa có cơ sở.
Xem xét toàn diện hồ sơ, TAND TPHCM tuyên Bản án phúc thẩm số 666/2023/DSPT ("Bản án số 666") ngày 15/6/2023: Hủy Bản án số 16 để xét xử lại sơ thẩm. HĐXX nhận định: Kháng nghị của VKSND H.Bình Chánh và kháng cáo của Công ty N.T, ông Tuấn, bà Dung là có cơ sở. Cấp sơ thẩm có nhiều thiếu sót về mặt tố tụng cũng như nội dung, nên cần hủy bản án, để giải quyết lại sơ thẩm một cách toàn diện, khách quan theo quy định.
Theo HĐXX, ông Tuấn và bà Dung đã có đơn yêu cầu độc lập. Cấp sơ thẩm nhận định yêu cầu của 2 người này không phải yêu cầu độc lập nên không chấp nhận giải quyết trong vụ án này là sai quy định, tước đi quyền đề nghị tòa xem xét quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Bà Ngô Thị Thanh Loan đã ký tên trong "giấy XNTN và PTTTN" ngày 15/01/2015 và là người trực tiếp giao nhận tiền của Công ty N.T, làm các thủ tục giao trả tiền cho ông Tân - bà Phượng. Vai trò của bà Loan rất quan trọng để làm rõ nội dung của vụ án, làm rõ từng thời điểm giao nhận tiền. Bà Loan không có quyền lợi, nhưng có nghĩa vụ khai báo. Cấp sơ thẩm không đưa bà Loan vào tham gia tố tụng, không lấy lời khai để xác định tư cách tham gia tố tụng của bà Loan. Do giá trị tranh chấp của vụ án rất lớn nên cần thiết phải đưa bà Loan vào tham gia tố tụng.
Theo HĐXX phúc thẩm, giao dịch giữa ông Tân, bà Phượng với Công ty N.T do bà Quí làm đại diện, theo "giấy XNTN và PTTTN" ngày 15/01/2015 đủ điều kiện có hiệu lực, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, để xem xét trách nhiệm trả khoản nợ trên là cá nhân bà Quí hay Công ty N.T thì cấp sơ thẩm chưa làm rõ; chưa có tài liệu thể hiện báo cáo tài chính năm gần nhất của Công ty N.T để xác định giá trị tài sản của công ty trước và sau khi bà Quí ký xác nhận nợ ngày 15/01/2015. Từ đó mới có cơ sở xem xét khoản nợ bà Quí ký xác nhận có được bà đưa vào Công ty N.T hay sử dụng vào mục đích cá nhân?
Khi tòa sơ thẩm kiến nghị khởi tố
Vụ "kỳ án" đã được TAND H.Bình Chánh thụ lý lại sơ thẩm ngày 23/8/2023. Quá trình tố tụng, phía bị đơn đã chứng minh một cách thuyết phục số tiền 790,433 tỷ đồng không phải "vốn gốc". Thực tế, đây là con số do vợ chồng chủ nợ tự tính "lãi chồng lãi" từ số tiền gốc 89,5 tỷ đồng. Phía bị đơn đã hóa giải "công thức" tính lãi của nguyên đơn.
Từ ngày 05/8/2009 - 07/4/2011, nguyên đơn cho bị đơn vay 10 lần với tổng số tiền 89,5 tỷ đồng, lãi suất 6,5% - 12%/tháng; nếu chưa trả hết lãi thì nhập lãi thành vốn mới, tính lãi cho tháng tiếp theo. Tại thời điểm ngày 21/4/2011, món vay 89,5 tỷ đồng đã lên 209 tỷ; nhảy vọt lên 759,86 tỷ đồng thể hiện tại "giấy XNTN và PTTTN" ngày 14/3/2013.
Tại thời điểm ký "giấy XNTN và PTTTN" ngày 15/01/2015, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn 83,22 tỷ đồng tiền lãi. Tính đến ngày 16/7/2015, bị đơn đã trả nợ 66 lần (51 lần trả tiền mặt và 15 lần chuyển khoản, có đầy đủ chứng từ), với tổng số tiền 97,25 tỷ đồng, nhưng "nợ gốc" 790,433 tỷ vẫn giữ nguyên.
Cả 10 lần vay tiền và 66 lần trả nợ là một quan hệ duy nhất, xuyên suốt giữa Công ty Hòa Phong do ông Tân làm đại diện cùng bà Phượng và hai con (ký nhận tiền lãi) với Công ty N.T. Chủ nợ cho rằng, khoản vay 89,5 tỷ đồng liên quan đến Công ty Hòa Phong đã tất toán, còn 790,433 tỷ của cá nhân ông Tân - bà Phượng là hoàn toàn không có căn cứ. Thực tế, ngoài "giấy XNTN và PTTTN" ngày 15/01/2015, ông Tân - bà Phượng không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh cho việc vay mượn, giao nhận tiền liên quan đến món nợ "khủng".
Với các tài liệu chứng cứ mới đã thu thập, phía bị đơn kiến nghị TAND H.Bình Chánh chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án dân sự sang Cơ quan điều tra để làm rõ dấu hiệu của hành vi "cho vay lãi nặng" và "lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" (phía ông Tân - bà Phượng đã giữ 2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hơn 172.000m2 tại H.Bình Chánh của Công ty N.T).
Nhận thấy có dấu hiệu hình sự, TAND H.Bình Chánh đã có văn bản kiến nghị gửi Cơ quan điều tra. Ngày 26/7/2024, Thượng tá Nguyễn Văn Minh - Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an H.Bình Chánh - ký văn bản số 7065/TB-ĐCSKT thông báo tiếp nhận kiến nghị khởi tố của TAND H.Bình Chánh, nội dung: "Vào năm 2009 - 2011, vợ chồng ông Cao Minh Tân và bà Phạm Thị Linh Phượng có cho Công ty N.T vay số tiền 89,5 tỷ đồng, Công ty N.T thanh toán tổng số tiền là 97,275 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến ngày 15/01/2015, Ông Tân - bà Phượng chốt số tiền nợ vốn gốc và lãi vay là 790,433 tỷ đồng (tiền lãi chồng lãi từ số tiền gốc 89,5 đồng) với mức lãi suất khoảng 13,42%/tháng (tương đương 161%/năm). Căn cứ các Điều 36, 145 và 146 Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan CSĐT Công an H.Bình Chánh đang giải quyết nguồn tin về tội phạm nêu trên"...
(Còn tiếp...)