Khát vọng vươn mình của ngành nông nghiệp Việt Nam
Từ đôi bàn tay cần cù và khát vọng đổi mới của người nông dân, nông nghiệp Việt Nam đang vươn mình mạnh mẽ, trở thành trụ cột của nền kinh tế. Ngành đang chuyển từ 'lượng' sang 'chất', từ sản xuất truyền thống sang nông nghiệp công nghệ cao, xanh và số hóa, hướng tới mục tiêu xuất khẩu 100 tỷ USD.
Từ đôi bàn tay cần cù và khát vọng đổi mới của người nông dân, nông nghiệp Việt Nam đang vươn mình mạnh mẽ, trở thành trụ cột của nền kinh tế. Ngành đang chuyển từ “lượng” sang “chất”, từ sản xuất truyền thống sang nông nghiệp công nghệ cao, xanh và số hóa, hướng tới mục tiêu xuất khẩu 100 tỷ USD.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Lễ kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Ngành Nông nghiệp và Môi trường có vị trí chiến lược đặc biệt, gắn bó mật thiết với đất đai, sông ngòi, rừng núi, làng quê, thành thị… với đời sống của hơn một trăm triệu người dân Việt Nam. Đây là ngành quản lý những nguồn tài nguyên sống còn của đất nước. Mỗi tấc đất, mỗi dòng sông, mỗi cánh rừng, mỗi vùng biển không chỉ là không gian sinh tồn và phát triển sinh kế, mà còn là thành tố của chủ quyền quốc gia.
Vì vậy, phát triển nông nghiệp, bảo vệ tài nguyên và môi trường không chỉ là nhiệm vụ kinh tế, mà còn là nhiệm vụ chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Tổng Bí thư yêu cầu Ngành nông nghiệp và Môi trường phải đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, coi đây là động lực then chốt của phát triển. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, cần chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu, từ tăng sản lượng sang nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.

Tại Lễ kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I ngày 12/11, Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã trao Huân chương Lao động hạng Nhất cho Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Trong dòng chảy đổi mới của đất nước, người nông dân Việt Nam đã không còn là hình ảnh gắn liền với ruộng đồng, con trâu, cái cày như trước. Họ bước vào thời kỳ tri thức, công nghệ và hội nhập quốc tế.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, mỗi nông dân là “mảnh ghép chân thực” phản ánh hơi thở của đồng đất, là những con người ngày đêm gìn giữ, vun đắp cho nền nông nghiệp nước nhà. Ông nhận thấy ở họ niềm tin, khát vọng và tinh thần chủ động đổi mới ở mọi vùng miền, mọi lĩnh vực.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu tại Lễ kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I.
Từ vùng đất đầy nắng gió Khánh Hòa, ông Võ Văn Sơn là minh chứng sống cho tư duy làm nông hiện đại. Khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng với 2 ha ao nuôi tôm, ông đầu tư vào mô hình siêu thâm canh công nghệ cao: Ao lót bạt, hệ thống kiểm soát nhiệt độ, độ mặn, oxy, tự động hóa quy trình cho ăn và xử lý nước.
Từ 2 ha ban đầu, trang trại của ông mở rộng lên gần 50 ha, sản lượng hàng trăm tấn tôm mỗi năm, doanh thu 45 tỷ đồng. Ông trở thành hình mẫu cho nghề nuôi trồng thủy sản bền vững, minh chứng rằng nông dân Việt Nam không chỉ chăm chỉ, mà còn biết tư duy lớn.
Tại Đồng Nai, ông Lê Lộc Quân, cựu bộ đội xuất ngũ, đã đưa mật ong Việt ra thế giới bằng tri thức của mình. Từ cơ sở nhỏ lẻ, ông đầu tư nghiên cứu, chế biến sâu, áp dụng công nghệ ly tâm, tiệt trùng, lọc lạnh theo tiêu chuẩn châu Âu. Ông còn sáng chế mật ong tinh luyện dạng bột khô, sản phẩm được cấp bằng sở hữu trí tuệ và xuất sang các thị trường khó tính như Hàn Quốc, châu Âu.

Từ đam mê với những chú ong nhỏ bé, nhưng cần mẫn làm việc, ông Lê Lộc Quân (46 tuổi, xã Dầu Giây, tỉnh Đồng Nai) từng bước gây dựng thương hiệu mật ong Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế. Không chỉ là một nông dân sản xuất giỏi với doanh thu 25 tỷ đồng/năm, ông còn là người tiên phong ứng dụng kỹ thuật mới để nuôi ong công nghệ cao, góp phần khẳng định vị thế mật ong Việt Nam trên bản đồ xuất khẩu nông sản thế giới.
Không chỉ sản xuất, ông Quân còn liên kết hơn 120 hộ nuôi ong, tạo vùng nguyên liệu ổn định, chia sẻ kỹ thuật và bao tiêu đầu ra. Nhờ đó, doanh thu đạt 25 tỷ đồng mỗi năm, mang lại thu nhập bền vững cho hàng trăm hộ nông dân.
Ở miền Tây, chị Châu Thị Nương, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Tà Đảnh (An Giang), chọn hướng đi kinh tế tuần hoàn. Từ rơm rạ sau vụ mùa, kết hợp cám gạo, chị tạo phôi trồng nấm mối đen; phụ phẩm làm thức ăn cho trùn quế, phân trùn lại bón cho ruộng. Quy trình khép kín ấy không tạo chất thải mà biến mọi thứ thành tài nguyên.

Chị Châu Thị Nương (48 tuổi, xã Cô Tô, tỉnh An Giang) đã xây dựng thành công trang trại trồng nấm dược liệu công nghệ cao tuần hoàn khép kín với quy mô hàng chục hecta mang tên “Nương Farm”. Thành công của chị Nương đã mở ra hướng phát triển nông nghiệp xanh, bền vững giữa lòng Bảy Núi.
Hợp tác xã của chị còn sử dụng điện mặt trời, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải. Mỗi năm doanh thu hơn 15 tỷ đồng, tạo việc làm ổn định cho 50 lao động với 80% là phụ nữ Khmer. Hành trình của chị là minh chứng cho tư duy đổi mới và khả năng làm chủ công nghệ của nông dân Việt Nam hiện đại.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đánh giá: Đời sống nông dân và cư dân nông thôn ngày càng cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh được Liên hợp quốc ghi nhận là “điểm sáng” về xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững.
Những người như ông Sơn, ông Quân, chị Nương... đang tạo nên hình ảnh lớp nông dân mới, năng động, tự tin, sáng tạo và hội nhập, là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Khung cảnh tuyệt đẹp của cánh đồng rong biển thôn Từ Thiện (xã Phước Dinh, tỉnh Ninh Thuận).

Sau khi chồng mất, chị Đào Hương Liễu (xã Nhân Cơ, Lâm Đồng) một mình nuôi hai con nhỏ bằng nghề trồng cà phê. Cuộc sống khó khăn vì canh tác theo kinh nghiệm, năng suất thấp. Năm 2013, chị tham gia chương trình NESCAFÉ Plan, áp dụng mô hình xen canh, tiết kiệm nước và cải thiện đất theo hướng tái sinh. “Nhờ đó, thu nhập của tôi ổn định, hai con trưởng thành và có việc làm”, chị chia sẻ.

Chị Đào Hương Liễu (xã Nhân Cơ, Lâm Đồng) bên đồi cà phê canh tác theo hướng nông nghiệp tái sinh.
Không chỉ đổi mới canh tác, chị Liễu còn trở thành trưởng nhóm nông dân của chương trình, hướng dẫn các thành viên thực hành sản xuất bền vững. Ban đầu, việc ghi chép sổ sách thủ công tốn thời gian, dễ sai sót; nay quá trình ấy đã số hóa. Nông dân lập nhóm Zalo trao đổi, dùng ứng dụng “Nhật ký nông hộ” để ghi chép, quản lý chi phí, theo dõi năng suất.
“Ban đầu nhiều người ngại, nhất là cô chú lớn tuổi, nhưng rồi ai cũng quen. Ứng dụng giúp tính toán vật tư, chi phí, tiết kiệm nhiều thời gian”, chị Liễu nói.
Theo ông Phạm Phú Ngọc, Quản lý chương trình NESCAFÉ Plan, khi triển khai tại Việt Nam năm 2011, việc tưới tiêu lãng phí là vấn đề lớn. Mỗi cây cà phê chỉ cần 400 lít nước mỗi lần, nhưng nông dân thường “tưới theo cảm tính”. Một sáng kiến đơn giản ra đời: Chôn vỏ lon sữa bò giữa bốn gốc cà phê, nước đầy 2/3 lon tức cây đủ nước, chỉ 1/3 thì bổ sung thêm. Sau này, nhiều hộ lắp hệ thống tưới tự động, kết nối điện thoại thông minh “ngồi nhà vẫn biết rẫy cần tưới hay không”.
Phương pháp này giúp cà phê chín đồng loạt 90%, tiết kiệm nước và giảm công sức thu hoạch. Một số hộ còn dùng chai nhựa úp xuống đất để kiểm tra độ ẩm, nếu sáng có giọt nước đọng là đất đủ ẩm, khô thì tưới... Cách làm giản dị mà hiệu quả, mở đường cho nông nghiệp xanh và số hóa.

Nescafé Plan đã mang đến nhiều cải tiến kỹ thuật và áp dụng công nghệ mới, tạo tác động tích cực đến sự phát triển bền vững cho ngành cà phê Việt Nam.
Trước đây, nhiều hộ tự ươm giống khiến chất lượng cà phê giảm, thậm chí có năm 30% lô hàng xuất sang EU bị trả về. Để khắc phục, NESCAFÉ phối hợp Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) nghiên cứu giống mới TRS1 hạt to, kháng bệnh, năng suất hơn 5 tấn/ha mà giá chỉ bằng một nửa cây ghép. Đến nay, hơn 74 triệu cây giống đã được phân phối, tái canh hơn 73.000 ha cà phê tại 5 tỉnh Tây Nguyên.
Chương trình đã tổ chức 467.000 lượt tập huấn, hỗ trợ trung bình 21.000 hộ mỗi năm, giúp tiết kiệm 40 - 60% nước tưới, giảm 20% phân hóa học, thuốc trừ sâu, tăng thu nhập 30 - 150%. Đây là minh chứng rõ cho hiệu quả của chuyển đổi xanh kết hợp chuyển đổi số trong nông nghiệp.
Theo Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, nông nghiệp Việt Nam cần đi đầu trong mô hình tăng trưởng xanh, trở thành lực lượng tiên phong của kinh tế tuần hoàn và kinh tế số. Mọi quyết định chiến lược phải dựa trên dữ liệu, cơ sở khoa học và thực tiễn.
Trên thực tế, chuyển đổi xanh - số đang thay đổi diện mạo nông nghiệp Việt Nam, từ canh tác hữu cơ, phân bón sinh học, hệ thống cảm biến độ ẩm, máy bay không người lái phun thuốc, đến quản lý trang trại qua điện thoại. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, công nghệ mới giúp giảm 30% chi phí thuốc trừ sâu, tăng 20% năng suất và giảm mạnh phát thải khí nhà kính.

Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, ba trụ cột của tăng trưởng nông nghiệp hiện đại là kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải khí nhà kính là con đường Việt Nam chọn để hội nhập sâu rộng, đáp ứng chuẩn thương mại quốc tế.
Chuyển đổi số không chỉ là kỹ thuật mà còn là “chìa khóa mở cửa thị trường toàn cầu” cho nông sản Việt Nam. Truy xuất nguồn gốc điện tử, sàn giao dịch nông sản trực tuyến, ứng dụng blockchain trong chuỗi cung ứng đang giúp nông sản Việt minh bạch, bền vững và tiệm cận chuẩn quốc tế.
Sinh ra tại thôn Thanh Hà 1 (xã Gia Rông, Gia Lai), anh Đào Duy Quỳnh gắn bó với nương rẫy từ nhỏ. Sau khi học xong, anh tiếp quản đồi cà phê của gia đình. Trước đây, canh tác theo lối cũ - diệt cỏ, tưới tùy tiện, dùng nhiều phân hóa học, khiến chi phí cao, năng suất thấp.
Năm 2012, anh tham gia NESCAFÉ Plan phối hợp cùng WASI và các đối tác khuyến nông. Chương trình hỗ trợ nông dân chuyển sang nông nghiệp tái sinh, tiết kiệm nước, bảo vệ môi trường và giảm phát thải.

Anh Đào Duy Quỳnh thôn Thanh Hà 1 (xã Gia Rông, Gia Lai) với thành quả vườn cà phê xen canh sầu riêng, canh tác theo hướng nông nghiệp tái sinh và áp dụng công nghệ đã cho thu nhập cao.
“Tham gia chương trình giúp tôi thay đổi hoàn toàn cách làm. Từ canh tác truyền thống, chúng tôi ứng dụng khoa học kỹ thuật, quản lý nông hộ bằng công nghệ số, nhờ đó thu nhập tăng”, anh Quỳnh nói.
Anh được hướng dẫn tưới tiết kiệm, trồng xen canh, giữ thảm cỏ chống xói mòn, giảm phân hóa học, thuốc trừ sâu. “Tôi ủ chuối, bánh dầu, bã đậu nành làm phân hữu cơ; còn thuốc thì ngâm lá cúc quỳ, thuốc lá làm thuốc sinh học vừa tiết kiệm, vừa an toàn”, anh chia sẻ.
Nhờ chuyển đổi sang nông nghiệp tái sinh, thu nhập gia đình tăng 30%. Ngoài cà phê, anh còn trồng xen sầu riêng cho thêm 300 triệu đồng mỗi năm.

Anh Đào Duy Quỳnh chia sẻ kinh nghiệm nông nghiệp tái sinh cho bà con.
Theo TS. Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, sau gần bốn thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã từ nền nông nghiệp thiếu ăn trở thành nước xuất khẩu nông sản hàng đầu, có mặt trong top 20 nền nông nghiệp mạnh nhất thế giới. Tuy nhiên, để ngang tầm các cường quốc như Hà Lan, Israel hay Hoa Kỳ, Việt Nam phải đi con đường riêng, dựa trên lợi thế sinh thái và đa dạng sinh học. Nông nghiệp sinh thái, xanh và tuần hoàn là hướng tất yếu; đồng thời, cần xây dựng thương hiệu quốc gia cho nông sản sạch, có chỉ dẫn địa lý rõ ràng.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, tăng trưởng nông nghiệp hiện nay chủ yếu nhờ khoa học công nghệ, không phải mở rộng diện tích. Giống mới, tự động hóa, quản lý thông minh đã giúp năng suất, chất lượng tăng cao dù đất canh tác giảm. Chế biến sâu là chìa khóa nâng cao giá trị gia tăng, giảm phụ thuộc xuất thô.

Nhờ khoa học công nghệ và tự động hóa đã giúp nâng cao năng suất dù đất canh tác giảm. Trong ảnh: Người dân điều khiển máy gặt đập liên hợp trên cánh đồng Mường Thanh giữa ánh vàng của lúa chín.
Việt Nam không thể sao chép mô hình nước khác, phải dựa trên điều kiện tự nhiên, văn hóa và con người Việt Nam kế thừa tinh hoa quốc tế nhưng thích ứng linh hoạt. Khi chính sách đúng, nông dân luôn là chủ thể mạnh mẽ nhất. Vì vậy, cải cách thể chế, thu hút doanh nghiệp, hỗ trợ hợp tác xã và tổ chức lại sản xuất sẽ là trọng tâm giai đoạn tới. Ngành nông nghiệp và môi trường hướng tới xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, sinh thái, hội nhập sâu toàn cầu, khẳng định vị thế Việt Nam trên bản đồ nông nghiệp thế giới.

Nếu “khoán 10” những năm 1980 giải phóng sức lao động nông dân, ngày nay, khoa học và công nghệ chính là “động cơ tăng tốc” giúp nông nghiệp Việt Nam phát triển hiện đại, sinh thái và thông minh.
Về vấn đề này, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhận định, để phát triển, không có con đường nào khác ngoài nhanh chóng làm chủ và ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao cạnh tranh, mở rộng thị phần quốc tế. Cơ chế chính sách phải đi trước, mở đường để công nghệ sớm vào cuộc sống, giúp nông dân, doanh nhân, đặc biệt là giới trẻ và phụ nữ, tìm thấy đam mê và sự nghiệp thuận lợi trong nông nghiệp.

Cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp.
Nhờ tái cơ cấu, nông nghiệp Việt Nam phát triển nhanh hơn, mang lại lợi ích lớn cho nông dân và đất nước. Nhưng mục tiêu tới đây cần cao hơn, để nông nghiệp và nông dân đóng góp tương xứng cho sự vươn lên của dân tộc.
Các tiến bộ trong giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ sinh học, cơ giới hóa đã làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất: Giống lúa chịu mặn, tôm kháng bệnh, tưới nhỏ giọt tự động, máy bay không người lái phun thuốc, ủ phân sinh học… đều góp phần tăng năng suất, giảm chi phí, bảo vệ môi trường.
Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, ứng dụng công nghệ giúp giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng giá trị nông sản. Nhiều mô hình thông minh đã chứng minh hiệu quả: trồng rau nhà kính điều khiển tự động, nuôi tôm cảm biến, chăn nuôi tuần hoàn tận dụng chất thải làm khí sinh học.
Doanh nghiệp nông nghiệp cũng đầu tư mạnh vào công nghệ từ chuỗi khép kín sữa, thịt, thủy sản đến trung tâm chế biến hiện đại ở Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long tạo nền tảng cho nông nghiệp có hàm lượng khoa học cao.

Dây truyền chế biến thủy sản.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, ngành xác định khoa học, công nghệ, chuyển đổi số là con đường bắt buộc. Đến năm 2026 sẽ hoàn thành Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, tài nguyên và nông nghiệp; ứng dụng AI, IoT, GIS, blockchain trong quản lý, truy xuất nguồn gốc, cảnh báo dịch hại, điều hành mùa vụ.
Cùng với đó, mô hình “Nhà khoa học của Nhà nông” sẽ được mở rộng, nơi chuyên gia và nông dân cùng nghiên cứu, để mỗi cánh đồng là “phòng thí nghiệm mở”, mỗi nông dân là “nhà sáng tạo xanh”. Đây chính là nền tảng để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia có nền nông nghiệp tri thức, tuần hoàn và phát thải thấp.

Với đà tăng trưởng ổn định, Việt Nam đang tiến gần mục tiêu xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 100 tỷ USD vào năm 2030, thể hiện khát vọng lớn và tầm nhìn dài hạn.
Tính đến tháng 10/2025, Việt Nam có 9 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nông lâm thủy sản 10 tháng đạt 58,13 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ 2024. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến khẳng định: Với đà hiện tại, mục tiêu 100 tỷ USD hoàn toàn khả thi. Dư địa tăng trưởng của nông nghiệp Việt Nam vẫn lớn, nhất là khi khoa học công nghệ, logistics và chuyển đổi số được tích hợp sâu vào sản xuất, chế biến, tiêu thụ...

Sơ chế trái thanh long để đóng gói xuất khẩu tại Bình Thuận.
Việc đạt kim ngạch cao không chỉ nhờ sản lượng mà còn ở phát triển bền vững. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt mục tiêu tăng trưởng đi đôi với bảo vệ môi trường, phát triển hữu cơ, tuần hoàn và giảm phát thải.
Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường Phạm Văn Duy cho biết, nông sản Việt Nam đã có mặt tại hơn 190 quốc gia, khẳng định năng lực sản xuất, chế biến và hội nhập quốc tế. Việt Nam nằm trong nhóm xuất khẩu hàng đầu thế giới ở các mặt hàng như gạo, cà phê, thủy sản, rau quả, hạt điều, hồ tiêu, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ là nền tảng cho tăng trưởng bền vững và hướng tới mục tiêu 100 tỷ USD.
Sứ mệnh của ngành nông nghiệp hiện nay không chỉ là đảm bảo an ninh lương thực mà còn kiến tạo hạnh phúc, thịnh vượng và văn minh cho nông thôn Việt Nam. Trong đó, mọi quyết sách của Bộ đều lấy nông dân làm gốc, làm trung tâm của hành động. Nông dân là trung tâm của đổi mới, được hỗ trợ đào tạo kỹ năng số, thương mại điện tử và tham gia tín chỉ carbon.

Xuất khẩu rau quả tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng cũng nhấn mạnh: Không thể có nông nghiệp hiện đại nếu hạ tầng yếu kém. Do vậy, ngành sẽ ưu tiên phát triển hệ thống thủy lợi đa mục tiêu, trung tâm logistics xanh, hạ tầng năng lượng tái tạo ở nông thôn và công nghiệp chế biến sâu, tạo mối liên kết bền vững giữa vùng nguyên liệu và thị trường trong nước, quốc tế. Ba đột phá đó là ba trụ cột gắn kết hữu cơ. Trong đó, thể chế mở đường, công nghệ tạo bước nhảy là hạ tầng bảo đảm hiện thực, để hình thành nền tảng cho tăng trưởng xanh, nông nghiệp tuần hoàn và phát triển bền vững.
Để cụ thể các định hướng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định các nhóm giải pháp hành động, coi đây là “mạch nguồn liên kết sức mạnh quốc gia” là “Công - Nông - Thương - Trí - Binh”. Trong đó, Nhà nước sẽ tiếp tục giữ vai trò kiến tạo, bố trí nguồn lực đúng trọng tâm, tăng cường phối hợp giữa trung ương và địa phương.
Nông dân là trung tâm của đổi mới, được hỗ trợ đào tạo kỹ năng số, thương mại điện tử và tham gia tín chỉ carbon. Doanh nghiệp trở thành động lực mở rộng thị trường và chuỗi giá trị. Nhà khoa học là nguồn tri thức giúp giải những bài toán tại đồng ruộng…
Phát triển nông nghiệp không chỉ là nhiệm vụ kinh tế mà còn là sứ mệnh văn hóa và nhân văn, bởi mỗi cánh đồng, mỗi rừng cây đều là tế bào sống của nền kinh tế quốc gia. “Chúng ta không chỉ làm ra của cải vật chất, mà còn gieo trồng hy vọng, gìn giữ bản sắc và kiến tạo tương lai bền vững cho con cháu mai sau”, Bộ trưởng Trần Đức Thắng chia sẻ.
Bài: Phong - Trang
Ảnh, Video: Phong, Trang, TTXVN
Trình bày: Nguyễn Hà
14/11/2025 08:00













