Khi mỗi tấn CO₂ làm đổi màu báo cáo tài chính

Từ năm nay, khoảng 150 doanh nghiệp phát thải lớn, chiếm 40% lượng phát thải carbon cả nước, bước vào giai đoạn tuân thủ của thị trường carbon. Khi hạn ngạch được phân bổ và mang giá trị thị trường, CO₂ trở thành một khoản chi tài chính mới, tác động trực tiếp đến kinh doanh của doanh nghiệp.

CO₂ bước vào sổ sách doanh nghiệp

Lộ trình thị trường carbon của Việt Nam quy định kỳ tuân thủ đầu tiên bắt đầu từ 1-1-2025. Khoảng 150 cơ sở phát thải cao nhất được phân bổ hạn ngạch cho giai đoạn 2025-2026. Nhóm này chủ yếu thuộc các ngành nhiệt điện, xi măng, thép, hóa chất và lọc hóa dầu. Việc chọn nhóm phát thải lớn nhất nhằm bảo đảm cơ chế vận hành ổn định trước khi mở rộng đến khoảng 1.000 doanh nghiệp từ sau 2028.

Lộ trình áp dụng kiểm kê phát thải, mua bán, giao dịch hạn ngạch. Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu

Lộ trình áp dụng kiểm kê phát thải, mua bán, giao dịch hạn ngạch. Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu

Khi hạn ngạch trở thành hàng hóa giao dịch, doanh nghiệp phải xem CO₂ như tài sản hoặc nghĩa vụ tài chính. Nếu phát thải vượt hạn mức được phân bổ, doanh nghiệp phải mua hạn ngạch trên sàn. Nếu phát thải thấp hơn, phần dư trở thành tài sản có thể bán và tạo dòng tiền. Giá hạn ngạch có thể biến động theo cung cầu, buộc doanh nghiệp lập ngân sách CO₂ như lập ngân sách nguyên liệu hay năng lượng.

Trong thông lệ quốc tế, hạn ngạch thường được ghi nhận như tài sản vô hình hoặc hàng tồn kho đặc biệt. Khi áp dụng vào hệ thống kế toán doanh nghiệp, câu hỏi đặt ra là cách ghi nhận, đánh giá lại giá trị và quản lý rủi ro biến động giá trên báo cáo tài chính. Từ đây, các giám đốc tài chính không chỉ quản trị chi phí vốn mà còn quản trị chi phí carbon.

Rủi ro tài chính lộ diện khi CO₂ có giá

CO₂ có giá sẽ làm phát sinh một số rủi ro. Rủi ro giá hạn ngạch là đáng kể nhất. Nếu nguồn cung khan hiếm, giá tăng sẽ làm đội chi phí sản xuất và bào mòn biên lợi nhuận. Những doanh nghiệp xuất khẩu ký hợp đồng dài hạn càng dễ rơi vào thế bị động vì chi phí carbon không thể đẩy sang khách hàng. Thép, xi măng và hóa chất sẽ chịu ảnh hưởng kép từ Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS) trong nước và cơ chế biên giới carbon (CBAM) của châu Âu.

Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu

Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu

Nếu doanh nghiệp thấy mình phát thải nhiều hơn được phân bổ, nghĩa là cuối kỳ sẽ phải mua thêm hạn ngạch và giá thị trường đang cao hoặc có thể tăng trong tương lai. Theo chuẩn mực kế toán, doanh nghiệp phải ghi nhận trước “khoản nghĩa vụ phải trả” bằng cách trích lập dự phòng. Ví dụ kỳ 2025–2026 doanh nghiệp được phân bổ 100.000 tấn CO₂ nhưng dự báo phát thải 130.000 tấn, thiếu 30.000 tấn. Nếu giá hạn ngạch CO₂ trên sàn hiện là 350.000 đồng/tấn, doanh nghiệp phải ghi trước chi phí 10,5 tỉ đồng cho nghĩa vụ mua hạn ngạch. Khoản dự phòng này lập ngay trong kỳ phát sinh, không đợi đến lúc đi mua thật.

Rủi ro dự phòng tài chính cũng đáng chú ý. Khi hạn ngạch giảm giá hoặc doanh nghiệp dự báo không đủ để nộp cuối kỳ, bộ phận tài chính doanh nghiệp phải trích lập dự phòng. Các khoản này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận sau thuế và khả năng chia cổ tức. Ví dụ dễ hiểu: doanh nghiệp mua 10.000 tấn hạn ngạch CO₂ với giá 300.000 đồng/tấn CO₂, tổng giá trị ghi sổ là 3 tỉ đồng. Sau 6 tháng, giá thị trường giảm còn 200.000 đồng/tấn, doanh nghiệp phải trích lập dự phòng giảm giá 1 tỉ đồng, khoản này ghi thẳng vào chi phí, làm giảm lợi nhuận. Giống như doanh nghiệp ôm hàng tồn kho mà giá giảm, buộc phải ghi lỗ.

Khi chi phí mua hạn ngạch cao hơn chi phí giảm phát thải nội bộ, về lâu dài, doanh nghiệp buộc phải đầu tư thiết bị tiết kiệm năng lượng, thay đổi quy trình sản xuất hoặc điện khí hóa. Đây là bài toán dòng tiền rõ ràng. Mua hạn ngạch chỉ giải quyết trước mắt, giảm phát thải mới là chiến lược bền vững.

Hạn ngạch phát thải phân bổ dựa trên dữ liệu MRV (đo đếm). Nếu doanh nghiệp không có hệ thống đo đếm chuẩn xác, hạn ngạch nhận được sẽ không phản ánh đúng thực tế. Thiếu dữ liệu chính xác đồng nghĩa với rủi ro bị phạt, rủi ro nộp thiếu hoặc rủi ro phải mua bù với giá cao.

Từ chi phí tuân thủ đến cơ hội tạo tài sản xanh

Hạn ngạch phát thải không chỉ mang lại chi phí hay rủi ro, mà còn mở ra cơ hội. Những doanh nghiệp có công nghệ sạch sẽ có thặng dư hạn ngạch để bán. Đây là nguồn thu mới bên cạnh hoạt động sản xuất. Các dự án giảm phát thải theo chuẩn quốc tế có thể tạo tín chỉ carbon, đặc biệt trong các dự án thu hồi khí mê tan, điện rác, tối ưu năng lượng hoặc tuần hoàn nguyên liệu.

Khi sàn giao dịch carbon đi vào hoạt động, dự kiến năm tới, hạn ngạch sẽ có giá niêm yết, có biến động và có thanh khoản. Điều này giúp hình thành lớp tài sản xanh mới của nền kinh tế. Với doanh nghiệp, đây vừa là chi phí tuân thủ, vừa là thị trường tài chính bổ sung nếu giảm phát thải so với hạn ngạch phân bổ.

Việt Nam cũng đang chuẩn bị tham gia Điều 6 của Thỏa thuận Paris. Nếu doanh nghiệp triển khai dự án giảm phát thải đạt chuẩn quốc tế, tín chỉ tạo ra có thể được giao dịch trên thị trường quốc tế với giá cao hơn thị trường tự nguyện thông thường, thường là cao hơn 5-10 lần. Chẳng hạn 1 tấn CO₂ trên thị trường tự nguyện trong nước 5 đô la nhưng giao dịch trên sàn quốc tế có thể 50-70 đô la. Đây là cơ hội thu hút vốn xanh và hợp tác song phương ở quy mô lớn.

Năng lực dữ liệu và giảm phát thải sẽ quyết định cuộc chơi

Cục Biến đổi khí hậu thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cơ quan đầu mối phân bổ hạn ngạch phát thải carbon cho thị trường bắt buộc (hay còn gọi là thị trường tuân thủ), cho rằng doanh nghiệp nên hoàn thiện kiểm kê khí nhà kính và hệ thống đo đếm phát thải. Không có dữ liệu đáng tin cậy, doanh nghiệp không thể biết mình đang phát thải bao nhiêu, cần mua thêm bao nhiêu hạn ngạch và có thể tạo bao nhiêu thặng dư.

Các nhà máy xi măng có công suất lớn, thường có phát thải lớn, sẽ áp dụng hạn ngạch phát thải trong năm nay. Ảnh: ximang.vn

Các nhà máy xi măng có công suất lớn, thường có phát thải lớn, sẽ áp dụng hạn ngạch phát thải trong năm nay. Ảnh: ximang.vn

Thứ hai là lập kế hoạch giảm phát thải nội bộ và đưa chi phí carbon vào mô hình tài chính, xây dựng ngân sách CO₂ song song với nguồn vốn kinh doanh. Khi CO₂ có giá, các hoạt động kinh doanh phải tính tới phát thải đi kèm.

Thứ ba là đánh giá khả năng tạo tín chỉ hoặc thặng dư hạn ngạch. Nếu làm tốt, CO₂ không chỉ là chi phí mà trở thành nguồn thu. Doanh nghiệp sạch sẽ nắm lợi thế cạnh tranh và hấp dẫn hơn với nhà đầu tư, khách hàng.

Năm nay đánh dấu lần đầu tiên CO₂ trở thành chi phí tài chính chính thức của doanh nghiệp Việt Nam. Khoảng 150 cơ sở phát thải lớn bước vào kỳ tuân thủ sẽ mở màn cho thị trường carbon trong nước. Đây là sức ép lớn nhưng cũng là cơ hội, doanh nghiệp nào chuẩn bị sớm sẽ biến hạn ngạch thành tài sản và lợi thế. Ai chậm sẽ trả giá bằng biên lợi nhuận suy giảm và chi phí sản xuất tăng cao.

CO₂ từ nay không còn nằm trong báo cáo môi trường mà nằm trong bảng cân đối kế toán.

Bốn nguyên tắc vận hành của thị trường carbon Việt Nam (Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu)

Doanh nghiệp phải nộp trả hạn ngạch phát thải dựa trên kết quả kiểm kê khí nhà kính cho giai đoạn 2025 - 2026.
Được vay mượn tối đa 15% hạn ngạch của giai đoạn kế tiếp để hoàn thành nghĩa vụ nộp trả.
Được chuyển giao phần hạn ngạch dư sang giai đoạn tiếp theo sau khi đã nộp trả đúng quy định.
Được sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ, nhưng mức tối đa không vượt quá 30% lượng hạn ngạch được phân bổ.

Hồng Văn

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/khi-moi-tan-co%E2%82%82-lam-doi-mau-bao-cao-tai-chinh/