Kinh tế năm 2025: Vượt thách thức hướng tới nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia
Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao, nâng hạng tín nhiệm quốc gia, Việt Nam cần cải cách thể chế, thu hút đầu tư tư nhân, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và quản lý rủi ro từ kinh tế toàn cầu.

Họp báo "Tâm Điểm Tín Dụng Việt Nam 2025" do Tổ chức S&P Global Ratings và Công ty FiinRatings phối hợp tổ chức ngày 27/2. (Ảnh: Vietnam+)
Giữa bối cảnh thách thức từ kinh tế toàn cầu, các chuyên gia quốc tế và trong nước vẫn lạc quan và đưa ra dự báo Việt Nam tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm tới.
Song, để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao và nâng hạng tín nhiệm quốc gia, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần vượt qua nhiều thách thức từ cải thiện thể chế đến thu hút đầu tư tư nhân.
Triển vọng tích cực
Tại buổi họp báo "Tâm Điểm Tín Dụng Việt Nam 2025" do Tổ chức S&P Global Ratings và Công ty FiinRatings phối hợp tổ chức ngày 27/2, các chuyên gia đã đưa ra những nhận định tích cực về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2025 và những yếu tố tác động đến xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Theo đánh giá từ S&P Global Ratings, Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất châu Á và cạnh tranh trực tiếp với Ấn Độ. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức từ kinh tế toàn cầu và nội tại.
Ông Louis Kuijs, Kinh tế tưởng khu vực châu Á-Thái Bình Dương của S&P Global Ratings khẳng định Việt Nam đã có một chặng đường phát triển ấn tượng trong nhiều thập kỷ qua.
"Bất chấp những biến động toàn cầu, nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình 6,2% trong 10 năm qua. Tiếp nối xu hướng phát triển xuất khẩu của các nền kinh tế Đông Á, Việt Nam đã tận dụng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) như một đòn bẩy quan trọng, tương tự như cách Trung Quốc làm trong giai đoạn hậu cải cách năm 1978," ông Kuijs nhấn mạnh.

Các chuyên gia đã đưa ra những nhận định tích cực về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2025 và những yếu tố tác động đến xếp hạng tín nhiệm quốc gia. (Ảnh: Vietnam+)
Dẫn chứng cụ thể, ông Kuijs cho biết năm 2024, giá trị xuất khẩu của Việt Nam tương đương 79% GDP, trong khi FDI đăng ký đạt 8% GDP. Theo đó, ông khẳng định: "Triển vọng kinh tế về cơ bản vẫn rất tích cực."
Tuy nhiên, vị chuyên gia này cho rằng những khó khăn cũng không nhỏ. Cụ thể, thách thức chính là rủi ro đến từ thuế quan thương mại của Mỹ khi mà thặng dư thương mại song phương của Việt Nam với quốc gia này ở quy mô lớn. Ngoài ra, thương mại của Việt Nam phụ thuộc lớn vào những “cơn gió ngược” của toàn cầu hóa.
Mặc dù vậy, S&P Global Ratings vẫn giữ quan điểm lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam.
"Chúng tôi dự báo mức tăng trưởng GDP của Việt Nam khoảng 6,5% trong 3 năm tới, đủ sức cạnh tranh với Ấn Độ trong cuộc đua trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất châu Á," ông Kuijs nói.
Trong dài hạn, ông Kuijs cho rằng Việt Nam cần giải bài toán cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị, chuyển mình thành một trung tâm sản xuất các mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Muốn vậy, Việt Nam cần thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao môi trường kinh doanh, gia tăng tính cạnh tranh trong ngành dịch vụ và đặc biệt đồng thời đầu tư mạnh vào chất lượng nhân lực.
"Nếu làm được, Việt Nam không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn đặt nền móng cho một nền kinh tế tăng trưởng bền vững," ông Kuijs nói.
Khai thác nguồn lực nội địa
Về động lực tăng trưởng 2025, ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng giám đốc FiinRatings nhấn mạnh rằng mục tiêu tăng trưởng GDP 8% vào năm 2025 và đạt mức hai con số từ năm 2026 sẽ phụ thuộc rất lớn vào động lực và sự hồi phục của đầu tư từ khu vực tư nhân.
Bên cạnh đó, ông Thuân chỉ ra mặc dù đầu tư công được kỳ vọng sẽ tạo đà tăng trưởng mạnh nhờ ngân sách gia tăng cùng với dòng vốn FDI duy trì ổn định, song đầu tư của khối doanh nghiệp tư nhân. Đặc biệt, các lĩnh vực bất động sản, năng lượng và ngành thâm dụng vốn vẫn chưa hoàn toàn phục hồi.
Tuy nhiên, ông Thuân cho rằng tiêu dùng nội địa đã hồi phục mạnh hơn và sẽ là một trong những động lực quan trọng giúp nền kinh tế tăng tốc từ năm 2025. Trên nền tảng đó, tổng doanh thu của tất cả các công ty niêm yết trong ngành có tính tiêu dùng đã ghi nhận sự phục hồi đáng kể trong doanh thu từ quý 4/2024, điều này đã tạo đà tăng trưởng vững chắc cho cả năm (như ngành bán lẻ tăng trưởng 13,2% so với cùng kỳ năm trước, ngành thực phẩm & đồ uống tăng 20,3%).
Nhìn tổng thể, lợi nhuận của các công ty niêm yết ngoài ngân hàng tăng tới 25,2% trong quý 4 năm 2024 so với cùng kỳ và cả năm 2024 tăng 29,4%. Đặc biệt, các doanh nghiệp bất động sản niêm yết ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng 67% trong quý 4/2024 và 98,7% trong cả năm 2024.

mục tiêu tăng trưởng GDP 8% vào năm 2025 và đạt mức hai con số từ năm 2026 sẽ phụ thuộc rất lớn vào động lực và sự hồi phục của đầu tư từ khu vực tư nhân. (Ảnh: Vietnam+)
"Tuy nhiên, bài toán lớn vẫn là nguồn vốn cho tăng trưởng," ông Thuân nhấn mạnh.
Theo ông Thuân, nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống ngân hàng, do đó việc phân bổ tín dụng sẽ đóng vai trò then chốt. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2025 dự kiến 16%, bài toán đặt ra “câu chuyện” dòng vốn tín dụng sẽ chảy vào lĩnh vực kinh tế nào? Các ngân hàng sẽ ưu tiên nhóm ngành nào? Đây là yếu tố cần theo dõi và đánh giá.
Ngoài ra, ông Thuân cũng lưu ý về thị trường trái phiếu doanh nghiệp phi ngân hàng, thị trường đã có những tín hiệu khởi sắc nhưng vẫn chưa đủ mạnh và chỉ chiếm 23% tổng giá trị phát hành năm 2024.
Trên bình diện quốc tế, ông Lê Hồng Khang, Giám đốc phân tích của FiinRatings nhấn mạnh những thách thức đến từ bối cảnh kinh tế toàn cầu. Trong đó, những yếu tố đáng lo ngại là nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu do căng thẳng địa chính trị leo thang. Đặc biệt là viễn cảnh “Trump 2.0” với chính sách thuế quan cứng rắn hơn. Thêm vào đó, việc tái cấu trúc các quan hệ thương mại quốc tế cùng với tốc độ cắt giảm lãi suất chậm hơn dự kiến của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể tác động đáng kể đến các thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam (như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và châu Âu).
Ông Khang cảnh báo thêm biến động tỷ giá và dự trữ ngoại hối cũng là những yếu tố cần theo dõi sát sao.
Đối với dòng vốn ngoại, các chuyên gia cho rằng việc cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia sẽ giúp Việt Nam thu hút thêm đầu tư nước ngoài và giảm chi phí vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên để đạt được điều này, Việt Nam cần cải cách thể chế và nâng cao hiệu quả chính sách.
Tại họp báo, ông Andrew Wood, Giám đốc Xếp hạng Tín nhiệm Quốc gia của S&P Global Ratings cho biết xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam dựa trên ba trụ cột chính. Cụ thể là tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, tỷ lệ nợ chính phủ ở mức trung bình và rủi ro nợ vay nước ngoài ở mức thấp. Theo ông, các chính sách ổn định và chiến lược thương mại cởi mở giúp Việt Nam duy trì dòng vốn đầu tư dồi dào từ các tập đoàn đa quốc gia. Điều này đã tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển kinh tế nhanh chóng.
"Do vậy, nếu tiếp tục cải cách thể chế, nâng cao hiệu quả chính sách tài khóa và đẩy mạnh thương mại-đầu tư, Việt Nam sẽ có cơ hội cải thiện đáng kể xếp hạng tín nhiệm quốc gia trong những năm tới," ông Wood nói./.