Ký ức một thời
Trong ký ức của những người lớn tuổi vẫn còn lưu giữ hình ảnh chiếc mâm, bởi nó gắn liền với những bữa cơm gia đình đầy ấm áp, yêu thương của một thời gian khó.
Thời tiền sơ sử, con người đã sử dụng chiếc mâm. Bằng chứng là nhiều chiếc mâm bồng, bát bồng bằng đất nung được phát hiện ở các di chỉ khảo cổ văn hóa Sa Huỳnh cách nay hàng nghìn năm. Mâm bồng của người cổ đại có dáng đẹp, trang trí hoa văn khắc vạch, vỏ sò, đế cao, vành rộng giống như chiếc rá để chứa thức ăn.
Từ thời xa xưa đến giữa đầu thế kỷ trước, người Việt đã sử dụng những chiếc mâm làm bằng gỗ. Vật liệu để tạo ra mâm gỗ chủ yếu được người dân sử dụng là gỗ mít, gỗ sung. Đây là những loại cây gỗ được trồng phổ biến ở các vùng nông thôn, nhất là ở các vùng trung du xứ Quảng.
Những cây mít cổ thụ nơi đây không thiếu, loại gỗ này chắc bền, chống được mối mọt. Để tạo tác một cái mâm gỗ nguyên khối có đường kính 65 - 70cm thì cây mít đó phải có tuổi trên 100 năm. Thợ mộc ở các làng nghề chế tác mâm gỗ để bán. Đây là mặt hàng gia dụng được ưa chuộng một thời.

Chiếc mâm đồng và mâm nhôm để nấu bánh tét và làm bánh in trong dịp Tết.
Trong các loại mâm thì mâm gỗ là tài sản quý. Chiếc mâm không chỉ là vật dụng đơn thuần trong mỗi bữa ăn, mà còn chứa đựng yếu tố thẩm mỹ với nét chạm trổ, hoa văn, kiểu dáng độc đáo. Đối với các gia đình quyền quý, chiếc mâm gỗ thường được chạm khắc hoa văn tinh xảo, nhũ màu bắt mắt.
Ngược lại, chiếc mâm gỗ của đại đa số của người dân thường để nguyên mặt mộc, không chạm khắc hay tô màu. Mâm mộc tiện bằng gỗ, đũa mộc là vật dụng của giới bình dân, nhà nghèo, khác với mâm son nhũ vàng, bát vàng, mâm thau, chén kiểu, đĩa hoa, tô sứ... của các tầng lớp khá giả.
Những chiếc đũa son xinh xắn thường đánh dấu bằng một đoạn ngắn thếp vàng bên trên luôn được “sánh đôi” cùng với loại mâm sang trọng này khi có cỗ tiệc. Mâm son thì nhất thiết không được bày ra những đôi đũa mộc vì nó không phù hợp, không tương thích.
Từ hình ảnh đó nên dân gian mới có câu: “Đũa mộc/ mốc mà trèo mâm son”. Nó phản ảnh sự phân biệt giữa quý tộc giàu sang và người dân nghèo khó, không thể cùng hội cùng thuyền và ẩn ý không “môn đăng hộ đối” trong hôn nhân.
Theo tập tục của làng quê xưa, dụng cụ ăn uống trong đình đám, lễ hội cũng khác với những thứ dùng thường ngày. Mâm gỗ dùng trong các đền, đình, được sơn son thiếp vàng, cùng đũa son, bát đĩa men. Riêng với cỗ chùa thường không dùng mâm đồng mà chỉ dùng loại mâm gỗ hình chữ nhật, hình vuông, và cũng chỉ dùng loại đũa mộc mà không dùng đũa son. Đặc biệt, trong các lễ nghi cưới xin của người Việt, chiếc mâm là đồ vật không thể thiếu vắng. Chiếc mâm để bày đặt các lễ vật cầu hôn của nhà trai mang đến nhà gái như rượu, thuốc, bánh trái, trong đó nhất thiết phải có mâm trầu cau...
Là vật dụng ẩm thực quan trọng trong gia đình nhưng ngày xưa, không phải nhà nào ở vùng nông thôn cũng có chiếc mâm để dọn thức ăn. Nhiều gia đình nghèo luôn dùng mẹt (dùng để sảy gạo) thay mâm. Chiếc mâm còn được sử dụng để làm bánh, đậy kín miệng nồi đồng khi nấu bánh chưng, bánh tét trong dịp lễ, Tết.
Chiếc mâm ăn của người Việt đã được đồng bào miền núi tiếp thu trong quá trình giao lưu văn hóa ẩm thực. Từ chỗ dọn ăn trên lá chuối, chiếc rá tre, mâm mây, đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao đã biết sắm và sử dụng các loại mâm gỗ, mâm đồng, mâm nhôm để bày biện thức ăn.

Mâm đồng bày trầu cau, lễ vật trong cưới hỏi.
Đời sống phát triển, người dân dần không còn dùng mâm gỗ, thay vào đó là mâm đồng, mâm nhôm. Vào đầu thế kỷ XX đến những thập niên 1980, nhất là sau thời bao cấp thì hầu như không còn dùng mâm gỗ nữa. Mâm thau làm bằng đồng thau, gồm có 2 loại mâm to và mâm nhỏ.
Mâm to thường dùng khi có đình đám. Loại mâm tốt nhất là mâm đồng bạch chạm trổ. Mâm thau còn có khi được gắn thêm 3 chân. Những chiếc mâm gỗ cổ xưa được nhiều gia đình, tộc họ giữ lại làm kỷ niệm hoặc làm vật dụng dùng để đậy thùng thóc, thùng gạo.
Trong văn hóa người Việt, mâm cơm gia đình thể hiện sự đoàn tụ, gắn bó yêu thương giữa các thành viên. Với nét thẩm mỹ, chiếc mâm còn mang biểu tượng của sự tràn đầy, viên mãn và ước vọng ấm no. Là vật dụng được chế tác từ gỗ nên dễ bị hư hỏng theo thời gian và bị mất mát do ít được sử dụng như xưa nên hiện vật này đang trở thành “của hiếm”.
Mỗi lần cúng tế, chạp họ, chiếc mâm xuất hiện như gợi lại kỷ niệm xưa để tưởng nhớ người xưa và giữ nền nếp gia phong, tộc họ. Hiện nay, chiếc mâm gỗ trưng bày trong nhiều bảo tàng và cũng là hiện vật được các nhà sưu tầm đồ cổ quan tâm sưu tập thành các bộ mâm rất thú vị.
Bài, ảnh: TẤN VỊNH
Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/ky-uc-mot-thoi-70192.htm











