Làm thế nào để phát triển nguồn nhân lực dược chất lượng cao tại Việt Nam?
Nguồn nhân lực dược đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của hệ thống y tế. Tuy nhiên, ngành Dược đang đối mặt với không ít khó khăn, từ chất lượng đào tạo không đồng đều, thiếu nhân lực tại các vùng sâu vùng xa đến yêu cầu đổi mới chương trình giảng dạy phù hợp với xu thế công nghệ...
Làm thế nào để giải quyết bài toán này đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, GS.TS. Nguyễn Hải Nam - Hiệu trưởng Trường Đại học Dược Hà Nội đã có những trao đổi xung quanh vấn đề này.
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực dược chất lượng cao
PV: Thưa GS.TS. Nguyễn Hải Nam, ông đánh giá như thế nào về thực trạng đào tạo nhân lực dược tại Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và yêu cầu ngày càng cao từ thực tiễn ngành Y tế nói chung?
GS.TS. Nguyễn Hải Nam: Theo Quyết định số 89 QĐ/TTg ngày 23/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ về "Phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" hướng đến mục tiêu: Mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng, được sống trong cộng đồng an toàn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được các chỉ tiêu chung của toàn quốc, đòi hỏi đội ngũ nhân lực y tế nói chung và nhân lực dược nói riêng cần phải mạnh cả về số lượng và chất lượng.

GS.TS. Nguyễn Hải Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Dược Hà Nội. Ảnh: NVCC
Trong những năm vừa qua, số lượng bác sĩ, điều dưỡng và dược sĩ gia tăng đáng kể. Đến nay, trung bình cả nước đã có 12 bác sĩ, 13 điều dưỡng và hơn 3 dược sĩ trên vạn dân. Tuy nhiên, phân bố nhân lực không đồng đều giữa các vùng miền, tập trung ở đồng bằng, thành thị và khu vực điều trị.
Một số chuyên ngành như y học dự phòng, lây nhiễm, chẩn đoán hình ảnh vẫn thiếu hụt nhân lực, chưa đáp ứng được về số lượng theo nhu cầu của xã hội.
Cả nước hiện có 33 cơ sở giáo dục đại học đào tạo bác sĩ và 45 cơ sở giáo dục đại học đào tạo dược sĩ. Một số trường top đầu đạt chất lượng đào tạo tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế như Đại học Dược Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh...
Với đặc thù của ngành Y liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người và trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc tổ chức kỳ thi quốc gia đánh giá năng lực làm cơ sở cấp giấy phép hành nghề cho một số chức danh như bác sĩ, dược sĩ, y sĩ, điều dưỡng… là hết sức cần thiết và cần sớm được triển khai.

Hình ảnh tại Hội nghị Dược lâm sàng 2022 “Quản lý và tối ưu hóa sử dụng kháng sinh trong bệnh viện”. Ảnh: TL
PV: Theo ông, đâu là những yếu tố then chốt để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành Dược?
GS.TS. Nguyễn Hải Nam: Giống như bất cứ ngành nào khác, để đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao, hai yếu tố quan trọng nhất cần nhắc đến là chương trình và đội ngũ giảng viên. Tuy nhiên, để xây dựng được nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu thực tiễn và phù hợp với xu hướng phát triển, cần phải quan tâm đến nhiều yếu tố khác…
Đối với ngành Dược là ngành đòi hỏi nhiều về kỹ năng thực hành, vì vậy cơ sở vật chất phục vụ cho thực hành tại các phòng thí nghiệm và cơ sở thực hành nghề nghiệp cũng không thể xem nhẹ. Thực hành lâm sàng đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo kỹ năng nghề nghiệp.
Sinh viên cần được tạo điều kiện tiếp cận với môi trường lâm sàng, học hỏi từ các trường hợp thực tế và áp dụng lý thuyết vào thực tiễn. Các cơ sở đào tạo cần phối hợp chặt chẽ với các bệnh viện và cơ sở y tế để xây dựng chương trình thực hành hiệu quả.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo cần đặc biệt chú trọng đến việc phát triển đạo đức nghề nghiệp. Mỗi người dược sĩ không chỉ cần giỏi chuyên môn, mà còn phải là người có tâm, có trách nhiệm đối với bệnh nhân và cộng đồng. Việc giáo dục về đạo đức nghề nghiệp cần được đan xen vào chương trình học từ giai đoạn sớm, để sinh viên định hình tâm thế và lối sống nghề nghiệp ngay từ những bước đầu.
Tóm lại, việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành Dược là một quá trình toàn diện, kết hợp giữa nội dung chương trình, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên và môi trường thực tế. Việc chú trọng phát triển đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng lâm sàng càng khẳng định vai trò then chốt trong việc đào tạo thế hệ dược sĩ trong tương lai.

Sinh viên cần được tạo điều kiện tiếp cận với môi trường lâm sàng, học hỏi từ các trường hợp thực tế và áp dụng lý thuyết vào thực tiễn. Ảnh: TL
Giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực dược
PV: Ngành dược đang thay đổi mạnh mẽ với sự phát triển của công nghệ và khoa học. Theo ông, chương trình đào tạo hiện nay cần được đổi mới ra sao để đáp ứng những yêu cầu mới và đảm bảo chất lượng nhân lực đầu ra?
GS.TS. Nguyễn Hải Nam: Ngành Dược là một ngành khoa học kỹ thuật. Trong bối cảnh hiện nay, khoa học công nghệ phát triển liên tục cũng đặt ra nhiều thách thức với chương trình đào tạo dược sĩ. Để đáp ứng những yêu cầu mới và đảm bảo chất lượng nhân lực đầu ra, chương trình đào tạo cũng cần có những đổi mới căn bản.
Điều đầu tiên, chuẩn năng lực dược sĩ Việt Nam cần được rà soát, cập nhật nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới và sẽ là căn cứ để xây dựng chương trình đào tạo. Chương trình đào tạo cần được giảm tải phần kiến thức cơ sở, tăng cường nội dung chuyên ngành, nhất là phần thực tập thực tế để rèn luyện kỹ năng thực hành nghề nghiệp.
Ngoài ra, chương trình đào tạo cần được thiết kế để nhấn mạnh kỹ năng tư duy phân tích, khả năng tự học tập và tự nghiên cứu. Sinh viên cần được trang bị kỹ năng thích nghi với những thay đổi nhanh chóng trong khoa học công nghệ, bao gồm việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), phân tích dữ liệu và các công nghệ sinh học tiên tiến.
Thêm vào đó, công tác đào tạo cần được thực hiện với phương pháp tư duy tích hợp, đào tạo liên tục và giao thoa kiến thức đa chuyên ngành. Sinh viên phải học hỏi cách làm việc theo nhóm, kỹ năng giao tiếp và tư duy hệ thống để phù hợp với yêu cầu thực tế và xu thế phát triển ngành dược trong thời gian tới.

Hợp tác quốc tế là cách nhanh nhất để chúng ta rút ngắn khoảng cách với thế giới vốn đã phát triển ở trình độ rất cao. Ảnh: TL
PV: Để đào tạo nhân lực ngành Dược gắn liền với thực tiễn, GS. có thể chia sẻ về vai trò của sự hợp tác giữa các cơ sở đào tạo với bệnh viện, doanh nghiệp dược phẩm và các tổ chức y tế?
GS.TS. Nguyễn Hải Nam: Như trên đã đề cập, ngoài chương trình và đội ngũ giảng viên thì đối với đào tạo nhân lực ngành Dược, điều kiện cơ sở thực hành là hết sức quan trọng. Sinh viên cần được tiếp cận với môi trường làm việc thực tế ngay trong quá trình đào tạo. Muốn vậy thì các cơ sở đào tạo phải có sự hợp tác chặt chẽ với các bệnh viện, doanh nghiệp và cơ sở y tế.
Hiện nay, Trường Đại học Dược Hà Nội đã đặt yếu tố chất lượng đào tạo lên hàng đầu. Vừa qua, nhà trường đã được xếp hạng thứ 3 trong tổng số 237 trường đại học trong nước về chất lượng dạy học. Đạt được kết quả này, không chỉ nhờ vào đội ngũ giảng viên giỏi, mà còn nhờ vào sự hợp tác, đồng hành chặt chẽ cùng hàng loạt bệnh viện hàng đầu, cả trung ương và Hà Nội như Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô, Bệnh viện Saint Paul,... Nhờ đó, sinh viên được tạo điều kiện thực tế hóa kiến thức lý thuyết ngay trong các môi trường thực tế.
Ngoài ra, nhà trường còn hợp tác với nhiều doanh nghiệp dược phẩm lớn như Traphaco, Công ty CP Dược phẩm Hà Tây, CPC1 Hà Nội, Công ty CP Dược phẩm Vĩnh Phúc… đem lại cơ hội thực tập tại những đơn vị tiên phong trong ngành. Nhờ vậy, sinh viên không chỉ được trang bị kiến thức chuyên môn mà còn hiểu rõ quy trình sản xuất, phân phối và quản lý trong thực tiễn, giúp đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường lao động hiện nay.
PV: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực ngành dược. Theo ông, Việt Nam cần làm gì để tận dụng tốt nhất các cơ hội này nhằm cải thiện năng lực đào tạo và nghiên cứu?
GS.TS. Nguyễn Hải Nam: Hợp tác quốc tế luôn có vai trò hết sức quan trọng đối với chất lượng đào tạo, đặc biệt đối với đào tạo nhân lực y tế nói chung và nhân lực dược nói riêng. Đây là cách nhanh nhất để chúng ta rút ngắn khoảng cách với thế giới vốn đã phát triển ở trình độ rất cao.
Với Trường Đại học Dược Hà Nội, nhà trường đã thỏa thuận hợp tác với hơn 40 trường đại học hàng đầu trên thế giới. Hàng năm, nhà trường triển khai nhiều chương trình trao đổi giảng viên và sinh viên, tạo điều kiện cho việc giao lưu quốc tế.
Qua đó, các giảng viên có cơ hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu với các giáo sư và nhóm nghiên cứu đầu ngành thế giới trong lĩnh vực dược học. Sinh viên cũng có được những trải nghiệm quý báu tại các môi trường quốc tế thông qua các chương trình trao đổi sinh viên.
Để tận dụng tốt nhất các cơ hội hợp tác quốc tế, chúng ta cần chủ động thiết lập quan hệ hợp tác với những trường đại học hàng đầu, tổ chức và tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế, cũng như tích cực gia nhập mạng lưới các trường đại học trong khu vực và trên thế giới. Việc khai thác các chương trình hợp tác về trao đổi kiến thức, đào tạo và nghiên cứu sẽ giúp Việt Nam tiến gần hơn với chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực dược học.
PV: Hướng về tương lai, xu hướng nào sẽ phát triển trong việc đào tạo nhân lực ngành Y tế nói chung và ngành dược nói riêng, thưa ông?
GS.TS. Nguyễn Hải Nam: Có lẽ trí tuệ nhân tạo và cơ sở dữ liệu lớn (big data) đang làm thay đổi toàn diện các lĩnh vực của đời sống, trong đó có cả lĩnh vực y dược. Những tiến bộ trong liệu pháp gene, tế bào và công nghệ in 3D cũng sẽ chi phối sâu sắc phương pháp điều trị cũng như sản xuất dược phẩm trong tương lai.
Bên cạnh đó, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sẽ ngày càng sâu rộng và toàn diện hơn trong lĩnh vực y tế, đặt ra yêu cầu đổi mới mạnh mẽ đối với chương trình đào tạo.
Tất cả những xu hướng trên tạo ra thách thức không nhỏ cho việc đào tạo nhân lực ngành y tế nói chung và ngành dược nói riêng. Các cơ sở đào tạo nhân lực y tế cần chuẩn bị sẵn sàng về đội ngũ giảng viên, chương trình giảng dạy, và cơ sở vật chất hiện đại để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội trong tương lai. Đặc biệt, việc nâng cao năng lực tiếng Anh của cả giảng viên và sinh viên là một yếu tố quan trọng để đảm bảo khả năng hội nhập quốc tế.
Một thách thức lớn khác là vấn đề học phí. So với nhiều ngành khác, ngành y dược có thời gian học tập dài hơn, với bác sĩ là 6 năm và dược sĩ là 5 năm, chưa kể đến thời gian đào tạo chuyên khoa sâu sau khi tốt nghiệp.
Trong chương trình học, tỷ trọng thực hành cao và yêu cầu khắt khe về trang thiết bị đào tạo khiến chi phí đào tạo ngày càng tăng. Trong bối cảnh các trường đại học dần tự chủ tài chính, gánh nặng học phí sẽ chuyển sang người học, tạo ra rào cản lớn đối với sinh viên giỏi nhưng có hoàn cảnh khó khăn.
Ngoài ra, chất lượng đầu vào của sinh viên là yếu tố then chốt đảm bảo chất lượng đầu ra. Để duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế, cần có các giải pháp toàn diện nhằm thu hút sinh viên có năng lực và đam mê, đồng thời hỗ trợ tài chính cho những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một bài toán quan trọng mà ngành giáo dục y tế cần giải quyết để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
PV: Trân trọng cảm ơn GS.TS. Nguyễn Hải Nam!