Mực nước biển dâng, những thành phố chìm và lời cảnh báo tương lai
Mực nước biển dâng cao đáng báo động trong khoảng 30 năm qua, mang theo lời cảnh báo cần phải hành động nhanh chóng giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Trong suốt hàng ngàn năm, mực nước biểntoàn cầu hầu như không có sự thay đổi. Tuy nhiên, điều đó đã khác trong thế kỷ XX. Mực nước biển bắt đầu thay đổi, không ngừng dâng kể từ đó và tốc độ đang ngày càng nhanh.
Kể từ năm 1993, các nước bắt đầu lắp đặt vệ tinh đã theo dõi các đại dương trên thế giới. Điều này cho phép các nhà khoa học có cái nhìn rõ ràng về diễn biến của mực nước biển. Những thông tin thu thập được từ hệ thống vệ tinh này cho thấy một thực tế rất đáng báo động.

Nước lũ gây ngập ở Fiji vào tháng 10-2024. Ảnh: CƠ QUAN ĐƯỜNG BỘ FIJI
Nước biển dâng đáng báo động
Theo một phân tích gần đây của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) về dữ liệu vệ tinh, mực nước biển đã dâng cao bất ngờ vào năm 2024. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại hơn là xu hướng dài hạn. Tốc độ mực nước biển dâng hàng năm đã tăng nhanh trong 30 năm qua, khiến mực nước biển toàn cầu tăng thêm 10 cm kể từ năm 1993.
"Giống như chúng ta đang đạp ga vậy" – ông Benjamin Hamlington, nhà khoa học thuộc Nhóm Mực nước biển và Băng tại NASA, nhận định. Theo ông Hamlington, trong khi các tín hiệu khí hậu khác dao động, mực nước biển toàn cầu vẫn "tăng liên tục".
Theo đài CNN, điều này báo hiệu những rắc rối cho tương lai. Các nhà khoa học dự đoán vào năm 2030 mực nước biển sẽ dâng 15 cm trên toàn cầu và lên tới 25 đến 30 cm ở Mỹ. Tuy nhiên, sau năm 2050, những con số này trở nên rất mơ hồ.
“Chúng ta có một phạm vi bất định rất lớn. Con số này đang ngày càng tăng cao hơn, cao hơn nữa và rất nhanh chóng” – ông Dirk Notz, trưởng khoa băng biển tại ĐH Hamburg (Đức), cho biết.
Theo ông Notz, thế giới có thể dễ dàng chứng kiến mực nước biển dâng thêm 90 cm vào năm 2100. Tuy nhiên, con số này cũng có thể thay đổi tùy theo tình hình thực tế.
Trong bối cảnh đó, nguyên nhân của sự gia tăng này được các nhà khoa học xác định chắc chắn là do hiện tượng nóng lên toàn cầu, vốn do con người gây ra.
Đại dương hấp thụ khoảng 90% lượng nhiệt dư thừa, chủ yếu được tạo ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch. Và khi nước nóng lên, nó sẽ giãn nở. Nhiệt độ trong đại dương và khí quyển cũng đang thúc đẩy sự tan chảy của các tảng băng Greenland và Nam Cực, vốn chứa đủ nước ngọt để làm mực nước biển toàn cầu dâng cao khoảng 65 m.
Các tảng băng tan chảy đã thúc đẩy khoảng hai phần ba mực nước biển dâng cao trong dài hạn.
Ông Notz cho biết rằng từ việc nghiên cứu lõi băng và trầm tích các nhà khoa học hiểu rằng sự tan chảy đột ngột và mạnh mẽ của băng đã từng xảy ra hàng ngàn năm trước. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn chưa rõ các quá trình này sẽ diễn ra như thế nào trong tương lai.

Băng tại một quần đảo ở Nam Cực vào tháng 1-2024. Ảnh: Juan Barreto/AFP
Ông Notz mô tả các tảng băng là một "gã khổng lồ đang thức tỉnh". Đi đến điều này phải mất một thời gian dài nhưng một khi "gã khổng lồ" đã thức tỉnh, "rất, rất khó để đưa nó trở lại trạng thái ngủ yên".
Nơi nào dễ bị tổn thương nhất trước mực nước biển dâng?
Theo CNN, một khi mực nước biển dâng, các biến động lớn sẽ xảy ra.
Một số khu vực trên thế giới có mực nước biển cao hơn những khu vực khác do nhiều yếu tố kết hợp, bao gồm dòng hải lưu, xói mòn và dịch chuyển đất. Trong đó, dịch chuyển đất xảy ra do các quá trình tự nhiên như chuyển động của mảng kiến tạo hoặc cũng có thể là do hoạt động của con người, bao gồm khai thác nhiên liệu hóa thạch và nước ngầm.
Ông Hamlington cho biết mực nước biển dọc bờ biển nước Mỹ đang tăng nhanh hơn mức trung bình toàn cầu và có xu hướng tiến gần đến mức cao nhất trong các kịch bản dự báo khí hậu hiện nay. Trong khi đó, vùng bờ biển Vịnh Mexico – nơi có vùng đất liền đang bị lún do hoạt động khai thác dầu, khí đốt và nước ngầm – cũng là một vị trí dễ bị tổn thương khi nước biển dâng.
Các quốc đảo Thái Bình Dương nằm ở vùng trũng thấp là những nơi gánh chịu hậu quả nặng nề nhất của mực nước biển dâng. Theo NASA, trong ba thập niên tới, mực nước biển tại các quốc đảo như Tuvalu, Kiribati và Fiji sẽ dâng ít nhất 15 cm, ngay cả khi thế giới giảm thiểu ô nhiễm gây nóng lên toàn cầu.
Ngoài ra, theo NASA, những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất cũng bao gồm các đồng bằng châu thổ nhiệt đới và cận nhiệt đới – những vùng đất rộng lớn chứa phù sa và là nơi các con sông đổ ra biển. Do những đồng bằng châu thổ này thường là nơi tập trung các thành phố cảng, dân số đông nên cũng sẽ phải đối mặt những rủi ro lớn.
Bên cạnh đó, các thành phố như Thượng Hải (Trung Quốc), Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam), Jakarta (Indonesia), Dhaka (Bangladesh), Bangkok (Thái Lan), Mumbai (Ấn Độ) cũng được cho là những điểm nóng.
Theo ông Hamlington, những thay đổi nhỏ về mực nước biển cũng có thể gây nên những tác động lớn.
Lũ lụt ven biển đang gia tăng, ngay cả khi không có bão lớn hay mưa lớn. Theo ông William Sweet – nhà hải dương học tại Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ (NOAA), lũ lụt do thủy triều cao hiện đã xảy ra thường xuyên hơn gấp hai đến ba lần kể từ năm 1990 dọc theo hầu hết bờ biển Đại Tây Dương và vùng vịnh của Mỹ.
Mực nước biển dâng cũng có thể gây xói mòn bờ biển, làm tắc nghẽn hệ thống thoát nước thải và khiến nước mặn thấm vào nguồn cung cấp nước ngọt ngầm.

Ngập lụt ở Bangkok (Thái Lan) vào tháng 7-2022. Ảnh: BANGKOK POST
Theo ông Notz, thế giới có thể thích nghi với mực nước biển dâng nhưng cần chuẩn bị từ sớm. "Chúng ta có thể phải di dời các thành phố, có thể phải di dời người dân" – ông nói.
Ông Notz cũng nhấn mạnh thảm họa thực sự sẽ xảy ra đối với thế hệ sau này, nếu chúng ta không hành động ngăn biến đổi khí hậu ngay từ lúc này.
"Mực nước biển dâng mà chúng ta phải đối mặt nhỏ hơn rất nhiều so với những gì các thế hệ tương lai phải đối mặt" – ông nói.













