Nếu doanh nghiệp Việt muốn đồng hành cùng FDI công nghệ cao…

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tạo ra nhiều việc làm và giúp tăng kim ngạch xuất khẩu, nhưng tác động lan tỏa tới năng lực cũng như công nghệ sản xuất của doanh nghiệp nội địa còn rất mờ nhạt. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp cận FDI công nghệ cao theo hướng 'đồng hành hai chiều': FDI mang lại tiêu chuẩn, thị trường và quy mô; doanh nghiệp nội địa tích lũy dần năng lực công nghệ...

Đây là quan điểm của TS. Hà Thị Cẩm Vân, Chủ nhiệm cấp cao bộ môn Kinh tế, trường Đại học RMIT Việt Nam và TS. Nguyễn Châu Trinh, giảng viên Kinh tế, trường Đại học RMIT Việt Nam, trong một nghiên cứu mới công bố về đầu tư FDI tại Việt Nam.

Doanh nghiệp Việt phải chủ động

KTSG: Nghiên cứu mới công bố của nhóm chuyên gia trường Đại học RMIT Việt Nam một lần nữa khiến chúng ta nhìn lại về vai trò của doanh nghiệp FDI, đặc biệt là doanh nghiệp FDI ngành điện tử với nền kinh tế Việt Nam. Là một thành viên nhóm nghiên cứu, theo ông sự hỗ trợ và đóng góp lớn nhất của khối FDI ngành điện tử với doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế là gì?

- TS. Nguyễn Châu Trinh: FDI ngành điện tử đã giúp Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ: Trong năm 2025, tính đến ngày 15-11-2025, xuất khẩu của ngành điện tử đạt gần 143 tỉ đô la Mỹ - mức cao nhất từ trước tới nay. Năm 2024 ghi nhận con số 126,5 tỉ đô la Mỹ, chiếm khoảng một phần ba tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Nhờ đó, hàng triệu việc làm đã được tạo ra.

Thống kê cho thấy số việc làm trong các doanh nghiệp FDI điện tử tăng từ khoảng 46.000 người, lên hơn 400.000 người trong giai đoạn 2005-2014, và đạt hơn 1,5 triệu vào năm 2024. Bên cạnh đóng góp về sản lượng, việc làm, và xuất khẩu, FDI cũng mang lại áp lực và tiêu chuẩn quản trị cao, giúp lan tỏa các thực hành hiện đại - tạo cơ hội cho doanh nghiệp nội địa học hỏi.

Nhưng điều then chốt mà nhiều người kỳ vọng - chuyển giao công nghệ cao, nội địa hóa chuỗi cung ứng - vẫn rất hạn chế. Thực tế, nhập khẩu linh kiện, máy tính và linh kiện điện tử của Việt Nam năm 2024 vượt 100 tỉ đô la Mỹ, cho thấy giá trị gia tăng nội địa vẫn thấp và doanh nghiệp Việt phần lớn vẫn phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu. Vì vậy, FDI đã đem lại việc làm và xuất khẩu, nhưng chưa tự động dẫn đến nâng cấp công nghệ hay nội địa hóa mạnh cho doanh nghiệp Việt.

KTSG: Như người xưa vẫn nói, tiên trách kỷ, vì sao doanh nghiệp trong nước chưa thể tiến bước, lớn mạnh và đóng góp cho nền kinh tế cùng tốc độ và chất lượng như doanh nghiệp FDI ngành điện tử?

- TS. Nguyễn Châu Trinh: Tuy Việt Nam đang có ngành điện tử rất lớn, thực lực doanh nghiệp điện tử ở Việt Nam, gồm cả doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp điện tử nội địa, vẫn còn ở trình độ “nhập - lắp ráp” nhiều hơn là tập trung vào các khâu có giá trị gia tăng cao như thiết kế hoặc sản xuất các linh kiện cốt yếu. Phần lớn linh kiện vẫn được nhập khẩu, doanh nghiệp nội địa ít tham gia khâu giá trị cao.

Các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc khi phát triển ngành công nghiệp điện tử đã rất chú trọng phát triển năng lực nội địa - nhà cung ứng, nghiên cứu và triển khai (R&D), kỹ thuật, quản lý và chính sách công nghiệp chủ động; liên kết có điều kiện, khuyến khích nội địa hóa, hỗ trợ đổi mới sáng tạo.

Chúng ta cần học theo mô hình đó: trước khi trông chờ doanh nghiệp FDI “rải” công nghệ, doanh nghiệp Việt phải chủ động nâng cấp năng lực, học hỏi, tự phát triển nhà cung ứng. Nếu không, chúng ta chỉ dừng lại ở vai trò “gia công”.

KTSG: Dù khoảng cách về công nghệ, quản lý giữa khối doanh nghiệp FDI ngành điện tử với khối doanh nghiệp nội địa tương đối lớn, và tình trạng này cải thiện một cách chậm chạp, Việt Nam vẫn là điểm đến thu hút FDI hàng đầu khu vực. Hiện tượng này có thể được lý giải ra sao?

- TS. Nguyễn Châu Trinh: Việt Nam vẫn rất hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài vì lợi thế chi phí nhân công, vị trí địa lý, chính sách ổn định, nên các tập đoàn lớn như Samsung, Foxconn, Intel... tiếp tục đổ vốn vào Việt Nam. Nhờ đó, xuất khẩu ngành này vẫn tăng mạnh, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu quốc gia.

Tuy nhiên, vì cấu trúc chuỗi giá trị là “producer-driven” - các tập đoàn lớn kiểm soát khâu công nghệ, thiết kế, tiêu chuẩn - nên họ thường phụ thuộc vào mạng cung ứng toàn cầu. Do đó, việc doanh nghiệp FDI “đồng hành thực chất” với doanh nghiệp Việt - nghĩa là hỗ trợ nâng cấp công nghệ, nội địa hóa, chuyển giao kỹ thuật - không xảy ra tự động, mà phụ thuộc vào động lực lợi ích, chính sách, và điều kiện bên phía Việt Nam.

Điều này nghĩa là nếu chúng ta không có: (1) hệ thống doanh nghiệp nội địa đủ mạnh để tham gia vào các khâu thiết yếu; (2) chính sách khuyến khích rõ ràng (ưu đãi cho nội địa hóa, hỗ trợ nhà cung cấp, hợp tác kỹ thuật), thì doanh nghiệp FDI sẽ tiếp tục vận hành độc lập và doanh nghiệp Việt khó có cơ hội “bắt kịp”.

Bắt đầu từ phân khúc hẹp

KTSG: Việt Nam đang hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững dựa vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Liệu chúng ta có nên nghĩ tới một cách tiếp cận và đồng hành thực chất và hiệu quả hơn với doanh nghiệp FDI công nghệ mới, công nghệ cao hay không?

- TS. Hà Thị Cẩm Vân: Ngành điện tử đang trở thành trụ cột kinh tế của Việt Nam. Vì thế Việt Nam cần tiếp cận FDI công nghệ cao một cách thực chất hơn để phát triển bền vững và đưa ngành kinh tế này từ “công xưởng lắp ráp” sang “trung tâm công nghệ và sản xuất có giá trị cao”.

Nghiên cứu của Lee (năm 2018) chỉ ra một điểm rất quan trọng: các nền kinh tế đi sau thường bị “mắc kẹt” trong những vị trí mà các tập đoàn đa quốc gia kiểm soát chặt chẽ. Khi phần lớn hoạt động sản xuất phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu thì dù xuất khẩu lớn, doanh nghiệp nội địa vẫn rất khó tích lũy năng lực công nghệ. Việc FDI hiện diện, theo Lee, chưa bao giờ đủ để tạo ra quá trình nâng cấp tự động; quốc gia đi sau phải chủ động “thoát ra” khỏi trạng thái bị khóa chặt này.

KTSG: Vậy chúng ta nên làm thế nào để hiện thực hóa những ý tưởng và quan điểm vừa nêu?

- TS. Hà Thị Cẩm Vân: Để làm được điều đó, điều cấp thiết nhất là Việt Nam cần phát triển năng lực công nghệ nội sinh. Theo tinh thần của Lee, quốc gia đi sau chỉ có thể bắt kịp khi họ tự xây dựng được năng lực nghiên cứu - phát triển, tự làm chủ một phần công nghệ và có khả năng thiết kế sản phẩm, dù ở quy mô khiêm tốn ban đầu. Thực tế, Việt Nam hoàn toàn có thể chọn những phân khúc hẹp mà doanh nghiệp trong nước có cơ hội làm chủ - chẳng hạn các module, linh kiện hoặc dịch vụ kỹ thuật không nằm trong “vùng lõi” mà các tập đoàn đa quốc gia nắm giữ. Những phân khúc này không buộc phải cạnh tranh trực diện với công nghệ cao cấp nhất, nhưng lại giúp doanh nghiệp Việt bắt đầu tích lũy năng lực và “bước chân” vào những khâu quan trọng hơn của chuỗi giá trị.

Tuy nhiên, chỉ doanh nghiệp tự thân vận động là không đủ. Nghiên cứu trên cũng nhấn mạnh rằng quá trình “move-out” - hay tái định vị trong chuỗi giá trị - luôn cần một chiến lược quốc gia đi kèm. Điều này có nghĩa là chính sách thu hút FDI phải chuyển từ ưu đãi rộng sang ưu đãi có điều kiện, đặc biệt với các dự án có cam kết cụ thể về R&D, chuyển giao kỹ thuật, đào tạo nhân lực hoặc phát triển nhà cung ứng. Khi doanh nghiệp FDI nhìn thấy lợi ích rõ ràng khi hợp tác với doanh nghiệp Việt, họ sẽ chủ động hơn trong việc mở cánh cửa công nghệ. Ngược lại, nếu ưu đãi không gắn với nghĩa vụ nâng cấp, thì việc doanh nghiệp FDI tiếp tục vận hành độc lập là điều dễ hiểu.

Nói ngắn gọn, Việt Nam cần tiếp cận FDI công nghệ cao theo hướng “đồng hành hai chiều”: FDI mang lại tiêu chuẩn, thị trường và quy mô; doanh nghiệp nội địa mang lại năng lực công nghệ đang dần tích lũy; và Nhà nước đóng vai trò kiến tạo để đảm bảo sự gắn kết này diễn ra một cách có ý nghĩa. Chỉ khi quốc gia đi sau như Việt Nam chủ động mở ra những con đường công nghệ mới cho chính mình, họ mới thoát khỏi vị trí thấp trong chuỗi giá trị và tiến tới bắt kịp.

Hoàng Hạnh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/neu-doanh-nghiep-viet-muon-dong-hanh-cung-fdi-cong-nghe-cao/