Nghị quyết 57-NQ/TW: Điểm đột phá, động lực thúc đẩy phát triển trong kỷ nguyên mới
Nghị quyết 57 như một mũi nhọn tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn từ nhận thức chung đến thể chế, từ đó, giải phóng sức sáng tạo, sức lao động, giải phóng nguồn lực đầu tư của toàn xã hội cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số...
Chia sẻ với báo chí về những điểm nhấn đột phá của Nghị quyết 57 cũng như những lợi thế trong triển khai Nghị quyết, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy nhấn mạnh, Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị tạo động lực lớn cho hệ thống chính trị, nhà khoa học, doanh nghiệp, người dân. Có thể coi Nghị quyết là một cuộc cách mạng thay đổi từ nhận thức đến nội dung, phương thức làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Nghị quyết 57 như một mũi nhọn tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn từ nhận thức chung đến thể chế, từ đó, giải phóng sức sáng tạo, sức lao động, giải phóng nguồn lực đầu tư của toàn xã hội cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Nghị quyết đưa ra những quan điểm đổi mới, xác định đầu tư cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đầu tư lâu dài, có độ trễ, chấp nhận rủi ro.
MŨI NHỌN TẬP TRUNG THÁO GỠ NHỮNG ĐIỂM NGHẼN, GIẢI PHÓNG SỨC SÁNG TẠO
Ngày 22/12/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Theo đó, Nghị quyết nêu rõ, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới- kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Nghị quyết xác định, đầu tư cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là nhiệm vụ bắt buộc trong giai đoạn hiện nay để phát triển đất nước, đưa Việt Nam hiện thực hóa các mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn 2045.
Nghị quyết cũng nêu quan điểm liên quan đến thúc đẩy hợp tác công tư, hợp tác giữa viện nghiên cứu, trường đại học công lập với doanh nghiệp; kêu gọi các nguồn lực, giải phóng nguồn lực đầu tư của xã hội, doanh nghiệp cho hạ tầng số, hạ tầng viễn thông, hạ tầng nghiên cứu phát triển.
Cũng theo Thứ trưởng, Nghị quyết đưa ra những quan điểm theo kịp thời đại, để bắt kịp xu thế phát triển của thế giới về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số như: coi dữ liệu là nguồn tài nguyên mới, nguồn tư liệu sản xuất mới; đồng thời chuyển đổi số để đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh, đổi mới lực lượng sản xuất; có cơ chế thu hút chuyên gia theo cơ chế thị trường.
Cùng với đó, đổi mới cơ chế sở hữu kết quả nghiên cứu từ các đề tài nghiên cứu của ngân sách nhà nước đối với các đơn vị chủ trì để họ tiếp tục đầu tư phát triển, đưa kết quả, ứng dụng phát huy vào thực tiễn, tạo công ăn việc làm, các sản phẩm để từ đó, đóng góp phát triển đất nước, cho ngân sách; thúc đẩy cơ chế quỹ trong các quỹ đầu tư của nhà nước cho khoa học công nghệ; cải cách cơ chế quản lý, triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ, cơ chế tài chính thông thoáng, nhanh và đạt hiệu quả cao nhất…
Nghị quyết cũng đưa ra những vấn đề mới, đặc biệt trong thời đại chuyển đổi số như cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, chấp nhận rủi ro trong khoa học, thử nghiệm công nghệ mới.
Bên cạnh tháo gỡ những rào cản, ông Duy cho rằng nội dung Nghị quyết mang tính hành động rất cao, như lời hiệu triệu bộ máy chính trị, xã hội, người dân, doanh nghiệp cùng vào cuộc, có hành động cụ thể.
Đối với hệ thống khoa học công nghệ là yêu cầu rà soát, tái cơ cấu các tổ chức khoa học công nghệ công lập theo hướng sáp nhập, giải thể những tổ chức yếu kém, hoạt động chưa hiệu quả; chú trọng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; xây dựng và triển khai chương trình công nghệ chiến lược liên quan đến những lĩnh vực mới như: AI, IoT, bán dẫn, phát triển hạ tầng số, hạ tầng viễn thông, phủ sóng 5G.
NHIỀU LỢI THẾ TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT VÀO CUỘC SỐNG
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ nhấn mạnh Nghị quyết 57 sẽ tạo động lực mới để các nhà khoa học, doanh nghiệp công nghệ thêm phấn khởi, cùng nhau cống hiến, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Phân tích về những lợi thế của Việt Nam, Thứ trưởng Bùi Thế Duy chỉ rõ lợi thế đầu tiên để triển khai Nghị quyết 57 là hệ thống chính trị Việt Nam ổn định.
Việt Nam cũng có nguồn nhân lực lớn trong các ngành kỹ thuật, công nghệ thông tin, khoa học cơ bản tạo thuận lợi để phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, Việt Nam có thị trường lớn, là "bà đỡ" cho các sản phẩm khoa học công nghệ mới, sản phẩm chuyển đổi số. Việt Nam cũng có lợi thế về địa chính trị trong khu vực, nơi kết nối giao lưu, tạo thuận lợi cho phát triển.
Bên cạnh đó, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đang ngày càng được nâng cao. Việt Nam tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, các cơ chế đa phương, trở thành đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược với nhiều quốc gia. Đây là lợi thế rất lớn để Việt Nam triển khai Nghị quyết này.
Tuy nhiên, thách thức đặt ra trước mắt cũng rất lớn, đầu tiên là việc đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống. Thách thức thứ hai là về tốc độ, thời gian để triển khai Nghị quyết bởi trong bối cảnh thế giới cũng như lĩnh vực khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, nếu Nghị quyết không được triển khai kịp thời sẽ nhanh chóng lạc hậu.
Một thách thức khác, cần triển khai Nghị quyết sâu rộng, tới toàn dân, toàn xã hội, tất cả các cấp ủy Đảng triển khai thường xuyên với tốc độ rất cao thì mới đáp ứng được những mục tiêu đề ra.
Những thách thức trên đòi hỏi cần xây dựng đội ngũ cán bộ, đầu tiên là trong các cơ quan quản lý nhà nước. Để triển khai Nghị quyết, cụ thể hóa thành thể chế, giải pháp, chắc chắn cách thức làm việc của đội ngũ cán bộ phải thay đổi, tốc độ làm việc phải cao hơn, không thể như trước đây.
Ví dụ, thời hạn sửa luật, nghị định, thông tư trước đây tính theo năm, nay phải tính theo tháng. Việc triển khai đề án, dự án trước đây tính theo tháng, nhưng giờ phải tính theo tuần.
Nghị quyết cũng cần được lan tỏa rộng rãi, thành hành động cụ thể với từng cán bộ quản lý, đảng viên, các cấp ủy, doanh nghiệp, người dân; tạo nên một cuộc cách mạng thay đổi phương thức làm việc trên nền tảng chuyển đổi số, dựa trên dữ liệu, hệ thống tự động hóa, công nghệ AI.
Cán bộ, người lao động phải có những kỹ năng phân tích, tích lũy dữ liệu. Hệ thống quản lý Nhà nước cũng phải thực hiện quyết liệt chỉ đạo của Tổng Bí thư, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên quan đến đơn giản hóa thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, chuyển đổi số… để tạo nên hệ thống Chính phủ điện tử, tương tác ngày càng chặt chẽ với người dân, doanh nghiệp.