Nguyên Bộ trưởng nói thẳng điều khiến doanh nghiệp bán dẫn e ngại
Việt Nam đang sở hữu nhiều lợi thế để phát triển công nghệ cao, đặc biệt là ngành bán dẫn. Tuy nhiên, hạ tầng, nhân lực và thị trường trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu để biến tiềm năng thành sức cạnh tranh thực sự.
Những lợi thế chiến lược của Việt Nam
Cuối tháng 6/2025, các nhà máy điện thoại di động tại Bắc Ninh và Thái Nguyên của Samsung đã đạt mốc sản xuất 2 tỷ chiếc tại Việt Nam. Tập đoàn Hàn Quốc còn mở rộng đầu tư vào chip và hoạt động R&D (nghiên cứu, phát triển).
NVIDIA, với phát biểu của Chủ tịch Jensen Huang, “coi Việt Nam như ngôi nhà thứ hai”, đã ký thỏa thuận với Chính phủ về việc mở Trung tâm R&D (nghiên cứu, phát triển) và Trung tâm Dữ liệu AI.
Intel và Amkor cũng gia tăng hiện diện tại Việt Nam, trong đó, “ông lớn” bán dẫn Amkor điều chỉnh nâng vốn thêm hơn 1 tỷ USD trong năm 2024 để mở rộng tổ hợp tại Bắc Ninh.
Nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu cam kết mở rộng đầu tư tại Việt Nam, trải rộng từ sản xuất điện tử quy mô tỷ USD, xây dựng nhà máy và tổ hợp đóng gói thử nghiệm chip, đến khai trương các trung tâm R&D về AI và thiết kế bán dẫn. Điều này cho thấy Việt Nam đang trở thành cứ điểm chiến lược trong chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu.
Dẫn những thông tin trên, TS Nguyễn Thái Chuyên, giảng viên ngành Kinh doanh quốc tế, Đại học RMIT Việt Nam chỉ ra 5 lợi thế cạnh tranh rõ nét của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ cao, gồm:
Thứ nhất, tình hình chính trị - xã hội ổn định giúp nhà đầu tư yên tâm với những dự án tỷ USD.
Thứ hai, nguồn nhân lực trẻ và chi phí cạnh tranh với đội ngũ kỹ sư ngày càng đông đảo, đồng thời, việc Việt Nam lọt top 50 về đổi mới sáng tạo toàn cầu cũng là lợi thế lớn.
Thứ ba, vị trí địa lý ở trung tâm Đông Nam Á, nơi chiếm sản lượng lớn bán dẫn toàn cầu, tạo điều kiện thuận lợi cho kết nối chuỗi cung ứng.
Thứ tư, chính sách ưu đãi hấp dẫn, như miễn thuế 4 năm đầu và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo, cũng là đòn bẩy đáng kể.
Thứ năm, nguồn tài nguyên đất hiếm lớn củng cố thêm vị thế cạnh tranh của Việt Nam.

Chip được thiết kế bởi Trường đại học Bách Khoa - Đại học Quốc gia TPHCM. Ảnh minh họa: TTBC
Cũng theo ông Chuyên, việc Việt Nam chuyển hướng từ mô hình gia công, lắp ráp thâm dụng lao động sang phát triển công nghệ cao, AI và bán dẫn là một trong những nguyên nhân chính thu hút “đại bàng” công nghệ.
Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn đến năm 2030 và tầm nhìn 2050 của Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thể hiện quyết tâm xây dựng hệ sinh thái công nghệ cao với mục tiêu doanh thu 50 tỷ USD/năm vào 2030.
Đồng quan điểm, Phó Tổng Giám đốc, Savills Việt Nam, ông Troy Griffiths nhận định, Chính phủ đang chủ động thúc đẩy và thể hiện quyết tâm trở thành trung tâm trong các lĩnh vực công nghệ cao và bán dẫn, thể hiện rõ qua những chính sách mới về chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh đó, vị trí địa lý chiến lược của Việt Nam đóng vai trò lớn, khi các tập đoàn toàn cầu đang tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng và giảm thiểu rủi ro thương mại.
"So với các quốc gia cạnh tranh trong khu vực, Việt Nam nổi bật hơn nhờ sự ổn định và định hướng rõ ràng trong phát triển công nghệ cao", ông nhấn mạnh.
Thực thi chính sách vẫn là khâu yếu
Dẫu vậy, việc sở hữu những lợi thế lớn chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ là cách cơ quan quản lý Nhà nước hành động để biến lợi thế cạnh tranh thành giá trị thực tiễn.
"Khâu vướng nhất luôn là tổ chức thực hiện", nguyên Bộ trưởng Khoa học & Công nghệ Nguyễn Quân nói với VietNamNet.
Ông Quân cho rằng, thể chế vẫn là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Từ trước đến nay, các nghị quyết đều rất tốt, có tính đột phá; tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện thường bị rất nhiều yếu tố tác động, dẫn đến chậm triển khai và không hiệu quả.
Đơn cử, để triển khai tốt Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ông Quân cho hay các văn bản hướng dẫn từ là luật, nghị định cho đến thông tư phải được ban hành kịp thời và đồng bộ mới làm được.

Ông Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Khoa học & Công nghệ tại một sự kiện. Ảnh: Tiền phong
Về phát triển lĩnh vực bán dẫn, ông chỉ ra 3 điểm đáng lưu tâm.
Thứ nhất, hạ tầng phục vụ sản xuất trong nước còn rất thiếu, cụ thể là hạ tầng năng lượng. Các ngành công nghiệp bán dẫn đòi hỏi chất lượng điện phải ở mức rất cao. Tức là, điện rất ổn định về điện áp và tần số, không có bất kỳ lý do gì có thể làm gián đoạn quá trình sản xuất của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
Thứ hai, sản xuất vi mạch bán dẫn đặc biệt cần nước tinh khiết, nước sạch với trữ lượng lớn. Tấm bán dẫn rất nhạy cảm với các hạt nhỏ. Ngay cả những tạp chất nhỏ cũng có thể gây ra khiếm khuyết nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hiệu suất, chất lượng chip.
Thứ ba, nguồn nhân lực từ khâu thiết kế đến cán bộ kỹ thuật. Nhân sự vận hành thiết bị hiện đại tại các nhà máy có giá trị tỷ USD cần được đào tạo với chất lượng cao.
“Đây chính là một số yếu tố chính khiến doanh nghiệp ngoại dù muốn đầu tư vào bán dẫn tại Việt Nam nhưng còn rất e ngại”, vị nguyên Bộ trưởng đánh giá.
Bên cạnh đó, ông cũng đặt vấn đề về thị trường tiêu thụ. Nhà nước muốn kêu gọi các doanh nghiệp nội địa đầu tư vào bán dẫn nhưng không ai có thể trả lời được là nếu Việt Nam sản xuất ra chip thì bán sản phẩm đó cho ai, doanh số là bao nhiêu. Bởi vì việc cạnh tranh được với các tập đoàn công nghệ quốc tế đang nắm giữ thị phần lớn là điều không dễ.
“Một nhà máy đầu tư hàng tỷ USD nhưng không bán được hàng sẽ nhanh chóng phá sản. Làm xong mà không bán được hàng là chúng ta thất bại”, ông Quân chỉ rõ.
Do vậy, ông kiến nghị, ngoài thu hút đầu tư, Nhà nước cần giúp doanh nghiệp nội địa chuẩn sẵn thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cần đưa ra giải pháp để các tập đoàn lớn đang đầu tư tại Việt Nam có thể chia sẻ một phần thị phần của họ cho doanh nghiệp bán dẫn Việt.
Để tận dụng các lợi thế hiện có và phát triển lĩnh vực công nghệ cao, TS Nguyễn Thái Chuyên cũng cho rằng, Việt Nam cần có chính sách ưu đãi có trọng điểm. Chính sách không chỉ là miễn giảm thuế mà phải đi kèm hỗ trợ nghiên cứu, bảo hộ sở hữu trí tuệ và khuyến khích doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng.
Nước ta cần phát triển công nghiệp phụ trợ, khuyến khích doanh nghiệp nội địa tham gia sâu hơn vào chuỗi bán dẫn - điện tử, từ đó giảm phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu.
Đối với đào tạo và phát triển nhân lực, Chính phủ đã đặt mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư bán dẫn vào năm 2030, nhưng cần gắn kết mạnh hơn với doanh nghiệp FDI để giúp thế hệ kỹ sư trẻ nhanh chóng tiếp cận công nghệ tiên tiến và đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Theo TS Nguyễn Thái Chuyên, tại Hàn Quốc, từ thập niên 1980, quốc gia này xác định bán dẫn là ngành mũi nhọn, đồng thời triển khai các chính sách tín dụng ưu đãi, đầu tư mạnh vào R&D và đào tạo nhân lực.
Hàn Quốc cũng chủ động hợp tác với Mỹ và Nhật Bản để tiếp nhận công nghệ, đào tạo kỹ sư và mua bản quyền thiết kế, đồng thời khuyến khích các tập đoàn nội địa như Samsung và SK Hynix học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và dần phát triển năng lực làm chủ công nghệ cốt lõi. Chính sách kiên định này đã đưa Hàn Quốc trở thành cường quốc bán dẫn, chiếm hơn 21% thị phần toàn cầu năm 2024.














