Nhà cách mạng tiền bối Trịnh Đình Cửu - tấm gương yêu nước sáng ngời
Là học trò trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với những đóng góp lớn lao cho cách mạng, nhân dân, nhà cách mạng tiền bối Trịnh Đình Cửu (1906 - 1990) được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh là sự ghi nhận, khẳng định xứng đáng của Đảng và Nhà nước ta. Những điều ấy đã rõ ràng, được công bố trên nhiều sách báo, tài liệu, công trình nghiên cứu. Người viết bài này, qua các nguồn tài liệu của Pháp để lại, xin có thêm một vài bổ sung với mục đích làm chân dung nhân vật đầy đặn, hệ thống, và hy vọng xác thực hơn.
Xuất thân gia thế Nho học và bước đường đầu tiên hoạt động cách mạng

Nhà cách mạng tiền bối Trịnh Đình Cửu.
Trịnh Đình Cửu sinh ngày 19/6/1906 tại làng Định Công Hạ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là phường Hoàng Mai, TP Hà Nội). Người cha tên thường gọi là Tú Mẫn (không rõ tên thật), từng thi đỗ Tú tài. Cụ Tú Mẫn từng có thời gian làm quan trong chế độ Pháp thuộc. Bất mãn với cảnh “cá chậu chim lồng”, ông về mở lớp dạy học. Người mẹ làm nghề buôn tơ lụa Hà Đông, có cửa hàng buôn ở 61 phố Hàng Đào (Hà Nội). Có tấm lòng yêu nước, thấu hiểu đạo lý, biết chữ nghĩa, nắm được thời thế, ông bà dồn tiền của nuôi con cái ăn học. Là người con thứ 5 trong gia đình có 9 anh em, Trịnh Đình Cửu thi vào Trường Bưởi (Hà Nội) học cùng lớp với Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh. Chịu ảnh hưởng phong trào yêu nước, ông cùng các bạn học bắt đầu thấm nhuần lý tưởng cách mạng, nuôi chí giành độc lập tự do cho đất nước. Hành động cụ thể của họ là tham gia phong trào để tang Phan Châu Trinh, đòi ân xá Phan Bội Châu.
Năm 1927, Trịnh Đình Cửu bí mật sang Trung Quốc dự lớp Huấn luyện lý luận do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách đào tạo tại Quảng Châu. Những học viên được chọn lọc với lý tưởng, chí hướng sẵn sàng hy sinh phấn đấu cho khát vọng giải phóng dân tộc. Theo tài liệu, số học viên huấn luyện trong 3 khóa ở Quảng Châu gồm 85 người: Khóa 1 có 10 người; khóa 2 có 25 người; khóa 3 có 50 người (dẫn theo Báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Cộng sản ngày 3/6/1927 – Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu 1924-1927 - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 57).
Sau khóa học Trịnh Đình Cửu tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội.
Sau khi về nước, Trịnh Đình Cửu tham gia phong trào vô sản hóa của Kỳ bộ Thanh niên Bắc Kỳ. Tháng 3 năm 1929, ông là 1 trong 7 người thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên tại số nhà 5D Hàm Long, Hà Nội. 6 trong số 7 người này đã dự lớp huấn luyện ở Quảng Châu (Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Trần Văn Cung, Nguyễn Đức Cảnh, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân). Cũng trong năm này, ông tham gia thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, gặp và đính hôn (chưa cưới) với một người đồng chí tên gọi là Nguyễn Thị Lệ.
Ngày 27/6/1929, tại nhà 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở Đảng ở miền Bắc đã quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ của Đảng, quyết định xuất bản báo Búa Liềm - cơ quan ngôn luận của Đảng và cử ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tác giả bài viết - Đại tá, PGS.TS Nguyễn Thanh Tú.
Tham gia thành lập Đảng
Đầu năm 1930, Trịnh Đình Cửu cùng Nguyễn Đức Cảnh đại diện cho Đông Dương Cộng sản Đảng bí mật sang Hương Cảng (Trung Quốc) chuẩn bị hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản trong nước thành một Đảng, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tại hội nghị này, các đại biểu của 2 đảng (An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Đảng) đã đồng ý hợp nhất thành chính đảng duy nhất lấy tên gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong những ngày Tết Nguyên đán Canh Ngọ (1930), 5 đại biểu (chính thức) đã họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - đại biểu đại diện của Quốc tế Cộng sản, để bàn một việc quan trọng. Hội nghị gồm các đại biểu của Đông Dương cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh) và An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm). Phân tích về vai trò, trách nhiệm của những người cộng sản trước vận mệnh dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc yêu cầu sự đoàn kết nhất trí cao trong những người cộng sản Việt Nam. Các đại biểu đã đồng thuận hợp nhất 2 tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Tại đây, nhà cách mạng Trịnh Đỉnh Cửu được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời và được giao nhiệm vụ Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam. Với quan niệm báo chí là vũ khí sắc bén của Đảng, Trịnh Đình Cửu chỉ đạo biên tập báo Tranh đấu, cơ quan phát ngôn của Trung ương Đảng. Sau Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết Lời kêu gọi vui mừng báo tin: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2011, tập 3, trang 15). Sau này, tác giả T. Lan trong “Vừa đi đường vừa kể chuyện” kể lại: “Năm 1930 - tháng 2, khoảng từ ngày 5 đến ngày 8, Nguyễn Ái Quốc “đãi” các đại biểu một bữa cơm nhân dịp Tết Nguyên đán, vừa tiết kiệm vừa linh đình, nhân sự kiện thành lập Đảng” . Bữa cơm thân mật “vừa linh đình” - thể hiện sự vui mừng trước việc đoàn kết, thống nhất, lại “vừa tiết kiệm” - một phong cách giản dị nhưng nói lên bao sự lo toan cho ngày mai của nhà lãnh đạo kiệt xuất.
Đầu năm 1930, nhà cách mạng Trần Phú được Quốc tế Cộng sản cử về Việt Nam hoạt động. Bí thư chấp ủy lâm thời Trịnh Đình Cửu gặp Trần Phú cùng Nguyễn Thế Rục tại gia đình cơ sở 47 phố Trần Nhân Tông. Từ đây, Trịnh Đình Cửu bố trí đưa Nguyễn Thế Rục về số nhà 16 phố Cầu Gỗ, trên căn gác hiệu “Đào Ký”. Còn Trần Phú được đưa về nhà số 4 phố Hàng Rươi. Đồng chí Trần Phú đã trao tận tay đồng chí Trịnh Đình Cửu lá thư của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Ban liên lạc Hải ngoại có nội dung giới thiệu đồng chí Trần Phú về nước hoạt động và đề nghị bổ sung vào Ban chấp ủy Trung ương lâm thời. Trịnh Đình Cửu truyền đạt với Trần Phú tình hình cả ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với những vấn đề nổi bật: Những cuộc bãi công bắt đầu nhen nhóm của vô sản Nam Định, vô sản Vinh - Bến Thủy; Cuộc nổi dậy của nông dân Thái Bình; Thất bại của khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng chủ trương… Tháng 4 năm 1930, đồng chí Trần Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời.
Để đảm bảo an toàn cho người cán bộ của Đảng từ hải ngoại về, cơ sở liên tục phải thay đổi. Trịnh Đình Cửu bố trí đưa Trần Phú về gia đình bà Nguyễn Thị Lệ tại phố Phúc Kiến (nay là phố Lãn Ông). Trần Phú đóng vai thầy giáo dạy học tư đến ở trọ với tên gọi “thầy Năm”. Bà Nguyễn Thị Lệ trực tiếp phụ trách đường dây giao thông liên lạc. Đồng chí Trần Phú trao đổi với đồng chí Trịnh Đình Cửu kế hoạch họp Ban chấp ủy Trung ương lâm thời để thống nhất phương hướng chỉ đạo phong trào. Nhưng tình hình lúc đó, Bí thư Chấp ủy Trung ương lâm thời Trịnh Đình Cửu nêu lý do rất khó họp được đầy đủ Ban Chấp ủy Trung ương. Vì: đồng chí Phạm Hữu Lầu, đồng chí Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) ở Nam Kỳ ra đến nơi phải mất hàng tuần lễ. Đồng chí Lê Mao và Nguyễn Phong Sắc ở Trung Kỳ đang bận chỉ đạo phong trào ở Nghệ Tĩnh. Tại Bắc Kỳ, sau khi đồng chí Nguyễn Hới bị bắt, chỉ còn lại đồng chí Trần Văn Lan. Đồng chí Trần Phú và đồng chí Trần Văn Lan - Thường vụ Ban chấp ủy Trung ương lâm thời trực tiếp xuống các cơ sở ở Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Yên… hòa mình vào với công nhân, nông dân các địa phương.
Trước tình hình đó, nhà lãnh đạo Trần Phú phải trực tiếp tham dự những cuộc sinh hoạt chi bộ Đảng tại cơ sở. Trong thời gian này, đồng chí Trịnh Đình Cửu đã tìm được một cơ sở mới cho cơ quan Trung ương. Khi các đồng chí Trần Phú và Trần Văn Lan trở về Hà Nội, đã được chuyển đến làm việc tại ngôi nhà số 90 phố Thợ Nhuộm. Ngôi nhà hai mặt tiền, ba tầng, tầng dưới cùng xây kiểu hầm đá, cửa sổ nhỏ tò vò, có song sắt kiên cố. Chủ ngôi nhà là Đuy-ô, Thanh tra tài chính thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương. Chủ nhà ở tầng hai. Còn anh bếp Tạ Văn Bân cùng những người làm thuê khác trong nhà mỗi người ở một căn phòng phụ. Riêng anh bếp Bân ở dưới tầng hầm, coi sóc mọi công việc trong nhà. Đồng chí Trịnh Đình Cửu và Tạ Văn Bân bố trí một buồng nhỏ, phía trong của tầng hầm đá làm nơi để đồng chí Trần Phú làm việc, nghỉ ngơi. Hàng ngày, bà Nguyễn Thị Lệ lo việc chợ búa, cơm nước, mua báo chí cho đồng chí Trần Phú theo dõi tình hình. Các đồng chí Nguyễn Thế Rục và Trần Văn Lan thường đến đây hội ý. Chính nơi đây, đồng chí Trần Phú đã khởi thảo và hoàn thiện bản Luận cương Chính trị của Đảng. Tháng 10 năm 1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Hương Cảng (Trung Quốc), Ban Chấp hành Trung ương chính thức bầu đồng chí Trần Phú là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng.

Ba Trịnh Tô Hợp được chụp ảnh chung với Bác Hồ va học vien trường Nguyễn Ái Quốc tại Việt Bắc (năm 1949). Ảnh Tư Liệu Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam.
Bị thực dân Pháp bắt, kết án, tiếp tục hoạt động cách mạng trong lao tù
Đầu năm 1931, Trịnh Đình Cửu cùng vợ là Nguyễn Thị Lệ xuống Hải Phòng đón đồng chí Lê Duẩn từ Nam bộ ra. Ba người trú tại một ngôi nhà ở phố Cầu Đất, Hải Phòng. Nhưng chỉ 3 ngày sau, ngày 20/4/1931, do có phản bội chỉ điểm, mật thám Pháp phát hiện và bắt một lúc cả ba người, sau đó đưa về giam tại nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội.
Thì ra có một Xứ ủy Bắc Kỳ bị bắt, không chịu được đòn tra tấn, đã khai báo tất cả những đầu mối liên lạc do mình phụ trách. Chiều ngày 20/4/1931, Sở Mật thám Pháp ở Hà Nội cho sĩ quan chỉ huy hai xe chở đầy cảnh sát và mật thám về Hải Phòng phối hợp với lực lượng tại chỗ lùng sục, bắt bớ. Cuộc vây ráp kéo dài đến nửa đêm. 7 cơ quan của Trung ương và Xứ ủy tan vỡ, 36 đồng chí sa vào tay giặc. Đồng chí Lê Duẩn cùng với các đồng chí trong Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ như: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Thị Lệ, Triệu Thị Đỉnh, bị bắt tại ngôi nhà số 8 ngõ Quảng Lạc.
Thực dân Pháp kết án cầm cố và giam các chiến sĩ cách mạng ở các nhà lao Hà Nội, Sơn La và Côn Đảo. Tại các nhà tù này, các đồng chí cùng nhiều đảng viên cộng sản lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống chế độ giam cầm hà khắc và tổ chức việc học tập chính trị.
Đồng chí Lê Duẩn và các đồng chí đảng viên cốt cán đã thành lập Ủy ban đấu tranh trong nhà tù có nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí của mình. Cùng với việc phụ trách phát hành các tờ báo trong tù, đồng chí Lê Duẩn và các đồng chí Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Trọng Đàm, Lương Khánh Thiện là những người tích cực hướng dẫn anh em tù nhân học tập chính trị, văn hóa, trau dồi lý tưởng cách mạng. Các tài liệu đã được truyền cho nhau học trong nhà tù là: Luận cương chính trị, Cộng sản vấn đáp, Lao nông chủ nghĩa, Cách mạng thế giới…
Đến tháng 7/1936, do tác động của Mặt trận Bình dân tại chính quốc Pháp, các nhà cách mạng Lê Duẩn, Trịnh Đình Cửu cùng nhiều tù nhân chính trị được trả tự do, trong đó có cả bà Nguyễn Thị Lệ. Sau khi ra tù, Trịnh Đình Cửu trở về Hà Nội và chính thức làm lễ cưới bà Nguyễn Thị Lệ. Sức khỏe giảm sút nhiều, ông và vợ được Đảng yêu cầu sinh sống bình thường như mọi công dân nhưng vẫn hoạt động bí mật cho Đảng cho đến Cách mạng Tháng Tám thành công. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, ông được bầu vào Xứ ủy Bắc Kỳ, làm Chính trị viên Trường võ bị Trần Quốc Tuấn. Tháng 3/1949, Trường Đảng Trung ương Nguyễn Ái Quốc được thành lập tại Định Hóa, Thái Nguyên, ông được cử làm Phó Giám đốc của Trường và giữ chức vụ này cho đến tháng 8/1950, khi trường chuyển về xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, nay thuộc xã Kim Bình, tỉnh Tuyên Quang.
Sau năm 1950, Trịnh Đình Cửu vẫn công tác như một cán bộ cao cấp của Trung ương Đảng. Năm 1960, sức khỏe không cho phép ông làm việc ở cương vị lãnh đạo cao cấp, Bác Hồ và Trung ương Đảng cho ông được nghỉ hưu.
Tấm gương sáng ngời cống hiến trọn vẹn cho Đảng, cho dân tộc
Về gia đình riêng, như đã nói ở trên, Trịnh Đình Cửu lập gia đình với bà Nguyễn Thị Lệ, sinh năm 1909. Bà Lệ cũng là một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chung sống với nhau từ năm 1929, nhưng mãi đến năm 1936, khi ông bà ra tù mới chính thức làm đám cưới. Họ có với nhau 3 người con: Người con trai đầu sinh năm 1929, gửi nhờ một cơ sở cách mạng ở tỉnh Hải Dương nuôi hộ nhưng chẳng may mất sớm. Người con trai thứ hai sinh năm 1931, khi bà đang ở trong tù, được gửi ra ngoài để nuôi dưỡng, nhưng sau đó bị thất lạc. Con gái út tên Trịnh Tô Hợp đã tham gia cách mạng khi mới 18 tuổi. Năm 1946, Toàn quốc kháng chiến, cô bé Hợp theo bố mẹ lên Chiến khu Việt Bắc. Lãnh đạo toàn dân kháng chiến, bận trăm công ngàn việc, nhưng Bác Hồ vẫn nhớ đến cô cháu gái bé bỏng. Mỗi tháng vài ba lần, Bác lại bảo đồng chí Vũ Kỳ sang trường Nguyễn Ái Quốc đưa cháu Hợp sang ăn cơm cùng, không quên dặn cháu Hợp mang theo bài học để Bác xem. Lần nào Trịnh Tô Hợp cũng được Bác khen. Có lần, Người xoa đầu Hợp căn dặn: “Có chữ là có tất cả, cháu phải ngoan, học giỏi để sau này kháng chiến thành công còn kiến quốc nữa”.
Năm 1953, Hợp được cử sang học tại Trường thiếu nhi Việt Nam ở Quế Lâm, Trung Quốc. Trước ngày lên đường, Hợp được gọi đến chụp ảnh riêng với Bác Hồ và bác Nguyễn Lương Bằng. Bác Hồ hỏi: “Lớn lên, cháu sẽ làm gì nào?”, bé trả lời ngay: “Cháu sẽ làm bộ đội, một là nghiên cứu chế tạo vũ khí để bảo vệ đất nước, hai là trở thành bác sĩ quân y để phục vụ trong đơn vị và nhân dân”. Năm 1954, Trịnh Tô Hợp lại được cử đi học Trường thiếu nhi Việt Nam tại Mát-xcơ-va (Liên Xô cũ). Hết lớp 7, khi trở về nước, tiếp tục học cấp ba tại Trường trung học phổ thông 3A. Năm 1962, bà trở lại Liên Xô học Khoa Toán-Cơ, Trường Đại học Tổng hợp Lê-nin ở U-dơ-bê-ki-xtan. Năm 1967, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đang bước vào giai đoạn ác liệt, cũng là năm Trịnh Tô Hợp về nước công tác tại Viện Kỹ thuật quân sự (Bộ Quốc phòng), cấp bậc Đại tá, chức vụ Trưởng phòng tại Phân viện Tên lửa.
Phát huy truyền thống gia đình, bà Hợp trở thành Bộ đội Cụ Hồ theo đúng ước nguyện, bà đã toàn tâm, toàn ý hết lòng cùng anh em trong nhóm nghiên cứu một số vũ khí đặc biệt trong chiến tranh chống Mỹ như A12, ĐKB, FE, AS… Công trình do Đại tá Phạm Ngọc Oanh làm nhóm trưởng. Năm 1996, các công trình nghiên cứu vũ khí đặc biệt của nhóm vinh dự được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
Đồng chí Trịnh Đình Cửu qua đời ngày 24/10/1990 tại Hà Nội. Ông được Đảng, Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
Tên của ông được đặt cho một con đường tại Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam và tại Hà Nội, ở phường Hoàng Mai hiện nay, có phố Trịnh Đình Cửu dài 2.500m.
Cả gia đình nhà cách mạng Trịnh Đình Cửu đều tham gia cách mạng và cống hiến trọn vẹn đời mình cho đất nước, cho dân tộc. Hai ông bà đều là bậc cách mạng tiền bối, thế hệ con cùng noi gương sống, cống hiến hết mình cho đất nước.
Con người, sự nghiệp, quá trình hoạt động của cả gia đình đồng chí cần được nghiên cứu sâu hơn và lan tỏa rộng rãi hơn!
Như những ánh lửa tỏa sáng, soi đường, những vị tiền bối cách mạng như Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Thị Lệ mãi mãi sống trong vòng hào quang lịch sử. Và thực sự cuộc đời, sự nghiệp của họ đã ánh xạ vào lịch sử để làm sáng thêm lịch sử!











