Những sứ giả văn hóa số của bản làng

Từ những clip mộc mạc được ghi bởi các chàng trai, cô gái người dân tộc thiểu số, một kho tàng văn hóa bản địa đang được số hóa theo cách tự nhiên nhất, từ chính những người giữ hồn di sản.

Cầu nối bản làng và thế giới

Không cần dự án, không cần phòng thu, mỗi chiếc điện thoại trở thành “bảo tàng bỏ túi” lưu giữ tri thức dân gian. Internet và mạng xã hội, thứ từng xa lạ với đồng bào miền núi nay trở thành cầu nối bản làng và thế giới; hình ảnh người dân cầm điện thoại, máy quay ra đường, xuống chợ hay lên núi ghi hình không còn xa lạ với nhiều người.

Hiện nay, hàng trăm “công dân số” tự ghi chép, truyền tải di sản theo cách gần gũi, sống động nhất; kênh YouTube Lý Thị Ca của anh Triệu Mạnh Dương, người dân tộc Dao, xã Phúc Yên, Tuyên Quang, với 1,46 triệu lượt theo dõi và hơn 600 video là ví dụ tiêu biểu cho xu hướng người dân tộc thiểu số chủ động bước vào không gian số để lan tỏa văn hóa truyền thống.

Kênh YouTube Lý Thị Ca kể lại câu chuyện văn hóa vùng cao với những nội dung đời thường, gần gũi, thu hút hàng trăm nghìn lượt xem mỗi video. Ảnh: HP

Kênh YouTube Lý Thị Ca kể lại câu chuyện văn hóa vùng cao với những nội dung đời thường, gần gũi, thu hút hàng trăm nghìn lượt xem mỗi video. Ảnh: HP

Không dùng lời thuyết minh cầu kỳ, các video chỉ dùng lối kể chuyện bằng hành động như chặt tre, dựng nhà, trồng cây, nấu ăn, sống hòa cùng núi rừng... Chính sự mộc mạc, chân thực đó khiến người xem cảm nhận được tinh thần lao động, tính cộng đồng và triết lý sống thuận tự nhiên của người vùng cao. Các video trên kênh hiện đều đặt tiêu đề tiếng Anh, cho thấy nỗ lực vươn ra khán giả toàn cầu, biến những giá trị tưởng chừng bình dị của đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam thành nội dung được hàng triệu người xem trên khắp thế giới yêu thích.

Giống anh Dương, phong trào làm YouTube, Tiktok đang nở rộ, đưa bức tranh cuộc sống, di sản, văn hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi trở thành chủ đề hấp dẫn, độc đáo trên các nền tảng mạng xã hội. Có thể kể đến những kênh cùng khai thác chủ đề này nổi bật như: Hải Thổ vlog, Hướng Giáy Sapa, Nông Thị Cẩm Quỳnh, Đại Bắc Kạn, Bàn Tình vlog...

Bắt đầu từ những video đơn giản, chân thực được sản xuất bằng điện thoại, họ dần trở thành những người sáng tạo nội dung chuyên nghiệp khi có nguồn thu quảng cáo ổn định trên kênh và thu nhập từ bán những mặt hàng nông sản địa phương.

Gìn giữ, lan tỏa văn hóa, du lịch

YouTube hiện có hơn 2,53 tỷ người dùng hoạt động hàng tháng trên toàn cầu. Đây là con số khổng lồ, cho thấy sức ảnh hưởng và khả năng lan tỏa không giới hạn của nền tảng này. Với ưu thế dễ tiếp cận, đa ngôn ngữ và thuật toán gợi ý mạnh mẽ, chỉ một video đơn giản quay ở bản làng xa xôi cũng có thể xuất hiện trước hàng triệu người xem khắp thế giới. Nhờ đó, những hình ảnh về nếp sống, phong tục, ẩm thực và thiên nhiên vùng cao Việt Nam đang vượt ra khỏi khuôn khổ địa phương, trở thành “cửa sổ văn hóa”, giúp bạn bè quốc tế hiểu hơn về bản làng và đời sống người dân tộc thiểu số.

Không chỉ quảng bá du lịch và bản sắc, các video còn khơi gợi niềm tự hào trong chính đồng bào, đặc biệt là thế hệ trẻ. Khi những người con dân tộc thấy quê hương mình được yêu mến trên mạng xã hội, họ có thêm động lực gìn giữ tiếng nói, trang phục, điệu múa, món ăn truyền thống... những giá trị độc đáo của dân tộc mình.

Youtuber Bàn Văn Tình (bên trái) - chủ kênh Youtube Bàn Tình vlog. Ảnh: HP

Youtuber Bàn Văn Tình (bên trái) - chủ kênh Youtube Bàn Tình vlog. Ảnh: HP

Ở góc nhìn rộng hơn, những kênh này đã góp phần số hóa di sản, lưu giữ phong tục, văn hóa của đồng bào các dân tộc bằng ngôn ngữ hình ảnh, đồng thời khẳng định vai trò chủ thể của người dân tộc trong bảo tồn văn hóa qua nền tảng số.

Nhiều địa phương trên cả nước như Tuyên Quang, Lào Cai, TP. Huế… đã có sáng kiến đưa chuyển đổi số gắn với bảo tồn văn hóa bản địa bằng cách tổ chức tập huấn quay, dựng video cho thanh niên dân tộc, kết nối các kênh YouTube với các hoạt động bảo tồn văn hóa.

TS. Bàn Tuấn Năng, Viện Văn hóa phát triển (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), Trưởng Ban đại diện nhóm “Người Dao Việt Nam - Gắn kết từ bản sắc”, cho rằng, nhìn ở chiều cơ hội, chuyển đổi số là đòn bẩy để thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền.

“Khi người dân tham gia bình đẳng vào không gian văn hóa số, vừa là người xem vừa là người sáng tạo, thì khoảng cách mới thực sự được thu hẹp. Khi văn hóa trở thành sinh kế bền vững, được tôn trọng, lan tỏa, văn hóa sẽ nuôi sống văn hóa. Khi người dân tộc thiểu số trở thành chủ thể sáng tạo trong không gian số, văn hóa không chỉ được gìn giữ mà còn được hồi sinh, lan tỏa. Đó chính là con đường bảo tồn bền vững nhất trong thời đại số”, TS. Bàn Tuấn Năng nhấn mạnh.

(Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp thực hiện)

Hồng Hà

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/nhung-su-gia-van-hoa-so-cua-ban-lang-10395606.html