Nuôi biển công nghiệp vươn tầm kinh tế xanh - Bài cuối: Hoàn thiện thể chế, bứt phá công nghệ
Nuôi biển được xem là chìa khóa cho tăng trưởng và phát triển bền vững, nhưng để bứt phá cần nền tảng thể chế, công nghệ và nguồn lực đủ mạnh.

Ông Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam. Ảnh; Bích Hồng/Bnews/vnanet.vn
Từ khai thác sang nuôi trồng, từ ven bờ nay đã vươn ra biển khơi, nuôi biển hở – ngành thủy sản Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ. Nuôi biển được xem là chìa khóa cho tăng trưởng và phát triển bền vững, nhưng để bứt phá cần nền tảng thể chế, công nghệ và nguồn lực đủ mạnh. Phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam để thấy rõ hơn hiện trạng, cơ hội và những định hướng lớn nhằm đưa nghề nuôi biển Việt Nam vươn tầm khu vực và thế giới.
Phóng viên:Ông đánh giá như thế nào về sự phát triển của nghề nuôi biển Việt Nam hiện nay?
Ông Nguyễn Hữu Dũng: Có thể nói, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới của nghề nuôi biển – một lĩnh vực đầy tiềm năng gắn với chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững.
Đến nay, Việt Nam đã có nền tảng pháp lý tương đối đầy đủ, từ Luật Thủy sản, các nghị định, quy hoạch quốc gia, cho đến Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn 2045 theo Quyết định 1664/QĐ-TTg. Mục tiêu là đưa nuôi biển trở thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiện đại và bền vững.
Hiện nay, hoạt động nuôi biển đã có mặt tại 21 tỉnh, thành ven biển, tập trung ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hòa, An Giang... Nhiều vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi về độ sâu, dòng chảy, kín gió. Trong khi diện tích nuôi trồng thủy sản trên đất liền không còn dư địa mở rộng, thì biển chính là không gian phát triển mới.
Tuy nhiên, phần lớn vẫn là nuôi ven bờ và nhỏ lẻ, dễ tổn thương trước ô nhiễm và xung đột sử dụng không gian. Vì vậy, phát triển nuôi xa bờ theo hướng công nghiệp là hướng đi tất yếu của tương lai.

Không chỉ lồng nuôi, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ hiện đại trong tự động hóa sản xuất. Ảnh: Đặng Tuấn/Bnews/vnanet.vn
Phóng viên: Về trình độ ứng dụng khoa học – công nghệ trong nuôi biển, ông nhìn nhận thế nào?
Ông Nguyễn Hữu Dũng: Thực tế, nuôi biển Việt Nam đang ở mức trung bình thấp so với quốc tế, nhưng khả năng tiếp thu công nghệ của Việt Nam lại rất nhanh. Một số doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ hiện đại của Na Uy, Nhật Bản… trong giám sát môi trường, quản lý vật nuôi và tự động hóa sản xuất. Mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây được xem là động lực quan trọng thúc đẩy hệ sinh thái nuôi biển hiện đại, với trọng tâm là phát triển các công nghệ cốt lõi phục vụ ngành.
Đó là công nghệ sinh sản nhân tạo, chế tạo phương tiện và thiết bị nuôi biển công nghiệp, sản xuất thức ăn công nghiệp cho vật nuôi biển, cùng công nghệ thu hoạch, bảo quản, chế biến và vận chuyển sản phẩm sau nuôi. Song song, ngành còn hướng tới công nghệ chiết xuất và tinh chế chế phẩm sinh học, sinh hóa có giá trị cao từ hải sản, tận dụng tối đa phụ phẩm để hình thành ngành công nghiệp không chất thải. Đặc biệt, việc ứng dụng IoT, trí tuệ nhân tạo (AI) và số hóa, tự động hóa quy trình nuôi biển được xem là chìa khóa để Việt Nam xây dựng ngành nuôi biển hiện đại, bền vững và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, nguồn nhân lực chuyên môn cao trong các lĩnh vực trên vẫn thiếu, đặc biệt là kỹ sư nuôi biển công nghiệp.
Để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ, cần tháo gỡ hai nút thắt: quyền sử dụng biển lâu dài và vốn đầu tư. Biển là “tư liệu sản xuất”. Nếu không được giao quyền sử dụng ổn định, ngư dân không thể mạnh dạn đầu tư. Giống như chuyện làm nhà: nếu chỉ được giao đất một năm thì người dân chỉ dựng lều tạm; nhưng nếu được giao 30 hay 50 năm, họ mới dám xây dựng kiên cố.
Khi được cấp “sổ xanh” – quyền sử dụng ổn định, ngư dân và doanh nghiệp mới dám đầu tư, thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc huy động nguồn vốn xanh quốc tế. Nuôi biển vốn là hoạt động xanh, thân thiện môi trường, nếu được đầu tư đúng hướng sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam.

Để khuyến khích nuôi biển hiện đại cần tháo gỡ về quyền sử dụng biển và vốn đầu tư. Ảnh: Đặng Tuấn/Bnews/vnanet.vn
Phóng viên: Với chính quyền hai cấp, theo ông sẽ có những thuận lợi gì trong quản lý, phát triển nuôi biển?
Ông Nguyễn Hữu Dũng: Thuận lợi là chính quyền cấp xã gần dân, hiểu dân, có thể nắm bắt thực tế sản xuất nhanh. Nhưng khó khăn lại nằm ở năng lực quản lý biển còn hạn chế. Hầu như chưa có cán bộ nào được đào tạo bài bản về lĩnh vực này, nên nếu giao quyền quản lý biển xuống đến cấp xã mà không có tập huấn, hướng dẫn, sẽ rất khó triển khai hiệu quả.
Vì thế, khi phân cấp quản lý, cần đi kèm đào tạo, tập huấn, hướng dẫn chuyên môn cho cán bộ cơ sở. Đồng thời phải số hóa quản lý không gian biển, cấp mã số cho từng vùng nuôi để truy xuất nguồn gốc, tránh xung đột và đảm bảo minh bạch trong khai thác, cấp phép.
Phóng viên: Theo ông đâu là giải pháp trọng tâm để phát triển nuôi biển công nghiệp bền vững trong thời gian tới?
Ông Nguyễn Hữu Dũng: Giải pháp đầu tiên là hoàn thiện thủ tục pháp lý giao khu vực biển lâu dài theo Nghị định 65/2025/NĐ-CP. Với chính quyền 2 cấp, hi vọng việc giao mặt nước biển cho ngư dân sẽ được thực hiện nhanh chóng.
Để chuyển đổi nuôi biển nhỏ lẻ manh mún hiện nay thành các vùng nuôi có quy hoạch, được thiết kế cẩn thận, cần phải thành lập các cụm công nghiệp và khu công nghiệp nuôi biển, với hai bộ phận là trên biển và trên bờ. Nơi đây, doanh nghiệp sẽ đầu tư hạ tầng, còn ngư dân, hợp tác xã thuê lại để sản xuất. Mô hình này giúp giảm chi phí đầu tư ban đầu, chuyên nghiệp hóa sản xuất, giảm ô nhiễm và hình thành các vùng nuôi quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc và đánh giá theo chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó, cần đổi mới cách đánh giá tác động môi trường. Thay vì để người dân tự làm báo cáo đánh giá tác động môi trường dù chưa được cấp phép, chưa triển khai nuôi trồng, dẫn đến nhiều bất cập, trong khi đây là một hoạt động khoa học phức tạp, Nhà nước nên chủ động nghiên cứu tải trọng môi trường của từng vùng biển rồi phân bổ hợp lý. Vì vậy, Việt Nam cần ban hành các tiêu chuẩn và quy chuẩn cụ thể về tác động môi trường trong canh tác biển, tránh đẩy gánh nặng này lên vai người dân; hoàn thiện hệ thống quản lý với quy chuẩn cụ thể.
Đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và đào tạo nhân lực – đây là yếu tố then chốt để Việt Nam bứt phá, tiến tới trở thành quốc gia dẫn đầu khu vực về nuôi biển công nghiệp.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông!











