Ông 'bộ trưởng của nông dân' và 'mối duyên nợ' với quê Thanh

Sinh ra từ đồng đất, từ những nhọc nhằn mồ hôi đổ xuống cánh đồng ngấm đẫm phèn và bỏng rát nắng vùng Tĩnh Gia cũ. Đó phải chăng là duyên nợ để hơn nửa đời người, ông như cánh cò miệt mài lội qua những ruộng đồng bờ bãi, với một niềm khắc khoải là làm sao cho 'đất cằn nở hoa' và trên đôi tay người nông dân luôn thơm mùi lúa chín. Để khi 'trở về' với đất mẹ, thì hương thơm của đất, của lúa sẽ còn vấn vít theo và dấu chân con người ấy đặt lên đất sẽ còn được nhắc nhớ đến...

Ông Lê Huy Ngọ, Cố vấn Ban Chỉ đạo Chương trình MTQG XDNTM Trung ương, làm việc với lãnh đạo xã Định Tân (huyện Yên Định cũ). Ảnh: Khôi Nguyên

Ông Lê Huy Ngọ, Cố vấn Ban Chỉ đạo Chương trình MTQG XDNTM Trung ương, làm việc với lãnh đạo xã Định Tân (huyện Yên Định cũ). Ảnh: Khôi Nguyên

“Ông cố vấn” nông thôn mới

Người ta nói động lực là một phần bí ẩn của mỗi con người và của chính cuộc sống. Có những người được thôi thúc vươn lên từ những nhọc nhằn, gian khổ; hoặc cũng có những người được thôi thúc bởi niềm tin mãnh liệt vào sự đổi thay, vào tương lai tốt đẹp. Nhìn lại gần 90 năm sống, lao động và cống hiến không ngơi nghỉ cho “sự nghiệp tam nông” của nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Lê Huy Ngọ, dường như cả gian khổ và niềm tin đều là động lực để ông kiên trì trên hành trình nhiều thăng trầm nhưng cũng đầy dấu ấn: Hành trình góp phần xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.

Tôi được gặp ông lần đầu tiên chừng khoảng năm 2010, thời điểm Thanh Hóa bắt đầu đẩy mạnh Chương trình Mục tiêu quốc gia (MTQG) XDNTM. Tuy nhiên, XDNTM vốn là chủ trương lớn của Đảng, đóng vai trò như một cuộc cách mạng rộng khắp, nhằm làm thay đổi về chất kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam. Cuộc cách mạng ấy được tiến hành đồng thời trên “3 mũi giáp công” là phát triển sản xuất tạo nền tảng bền vững; cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống người nông dân; xây dựng một nông thôn văn minh, đậm đà bản sắc văn hóa.

Mục tiêu là rất lớn và có tính bao trùm, nhưng để thực hiện thì không hề dễ dàng, nhất là với những địa phương có xuất phát điểm thấp. Vậy tháo nút thắt này như thế nào? Câu hỏi đã trở thành điều trăn trở của lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa lúc bấy giờ. Đồng thời, nó đòi hỏi phải có sự tham vấn, “hiến kế” của các chuyên gia giàu kinh nghiệm, thực sự am hiểu về “tam nông”, cũng như nhạy bén với mọi sự biến đổi từ thực tiễn. Chính từ yêu cầu thúc bách ấy, vai trò của “ông cố vấn” Lê Huy Ngọ đối với công cuộc XDNTM ở xứ Thanh càng được thể hiện rõ.

Tôi đã có dịp cùng ông về thăm Định Tân (huyện Yên Định cũ) - một trong những xã cán đích NTM sớm của tỉnh Thanh Hóa. Được theo chân ông ra tận ruộng, nghe ông nói về quá trình sinh trưởng của cây bằng kiến thức của một chuyên gia nông nghiệp và kinh nghiệm của một “lão nông” thực thụ. Tôi nhớ, trong những cuộc trò chuyện về lĩnh vực ông vốn “nằm lòng” này, ông đã chia sẻ: Kiến thức - dù bất kỳ lĩnh vực nào - cũng không chỉ cần học qua sách vở, mà còn cần được tích lũy từ thực tiễn. Phải đi nhiều, nghe nhiều, thấy nhiều, học hỏi nhiều và nhất là được ứng dụng nhiều, thì mới có được và liên tục được làm đầy. Với tâm niệm ấy, mỗi làng quê đi qua đều là một “trường học” để ông tích lũy kiến thức, hiểu biết nhằm phục vụ công tác quản lý, tham mưu xây dựng và thực thi các chính sách về nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Đồng thời, nó là “kho vốn” để khi rời vị trí công tác, ông lại trở thành Cố vấn Ban Chỉ đạo Chương trình MTQG XDNTM Trung ương.

Đặt vấn đề tháo nút thắt trong XDNTM ở Thanh Hóa, khi mà mục tiêu lớn nhưng nguồn lực hạn chế, “ông cố vấn” Lê Huy Ngọ đã đưa ra nhiều kiến giải cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Song, điều tôi nhớ nhất từ những lần trao đổi về chủ đề này, đó là ông luôn luôn đặt người nông dân vào trung tâm - chủ thể - nòng cốt của quá trình XDNTM. Ông cho rằng, chỉ khi người dân là chủ thể, là nòng cốt, thì mới huy động được nội lực và niềm tin của họ vào cuộc cách mạng nhiều khó khăn này. Và rằng, “đánh giá NTM phải do người dân - những người trực tiếp làm, hưởng thụ - đánh giá. Đó mới là NTM thiết thực và đích thực”. Nói cách khác, chính sự hài lòng của người dân mới là “tiêu chí cứng” để đánh giá hiệu quả của công cuộc XDNTM.

Song, để người nông dân thực sự là nhân tố căn bản nhất của cả quá trình XDNTM, thì cần tạo được một “vùng chung” trong nhận thức từ đội ngũ lãnh đạo các cấp, đến cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Cái tâm của “vùng chung” ấy không gì khác là tinh thần đoàn kết, đồng lòng. Ngoài ra, ông còn đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của đội ngũ cán bộ, với phẩm chất cần có nhất là tinh thần trách nhiệm. Ông cho rằng: “Cán bộ nên trở về với dân, lắng nghe tiếng nói của dân bằng niềm đồng cảm thực sự; lấy trách nhiệm để đối diện với vấn đề lớn nhất ở nông thôn lúc này là đời sống người nông dân còn nhiều khó khăn”.

“Công trình sư” hè Sầm Sơn 1989

Sầm Sơn được ví như một tuyệt tác của tạo hóa, dưới hình hài của một vụng biển xanh đầy nắng vàng và cát trắng. Để rồi, dưới “con mắt xanh” của giới cầm quyền Pháp, Sầm Sơn đã được xây dựng (năm 1907) để trở thành điểm nghỉ dưỡng lý tưởng bậc nhất Đông Dương. Ngày nay, Sầm Sơn được biết đến với hình ảnh một đô thị du lịch biển năng động, đầy sức sống và từng được vinh danh là 1 trong 5 khu du lịch hàng đầu Việt Nam (2017). Tuy nhiên, ít ai biết rằng “bản giao hưởng của biển” Sầm Sơn không hoàn toàn là bản nhạc tươi vui; ngược lại nó có nhiều nốt trầm khiến những người có tâm với du lịch biển không khỏi chạnh lòng. Và cũng ít người biết đến sự khởi sắc thực sự của Sầm Sơn phải bắt đầu từ một “mùa hè kỳ lạ”: Hè Sầm Sơn 1989 gắn liền với tên tuổi của “công trình sư” Lê Huy Ngọ, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa (giai đoạn 1988-1991).

Ông Lê Huy Ngọ, Cố vấn Ban Chỉ đạo Chương trình MTQG XDNTM Trung ương thăm các mô hình sản xuất trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Trần Thanh

Ông Lê Huy Ngọ, Cố vấn Ban Chỉ đạo Chương trình MTQG XDNTM Trung ương thăm các mô hình sản xuất trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Trần Thanh

Khi tôi đặt câu hỏi rằng “Vì sao ông lại chọn du lịch - một lĩnh vực rất mới, thay vì nông nghiệp - lĩnh vực mà ông là chuyên gia, để “khai phá” mảnh đất giàu tiềm năng xứ Thanh?”. Ông cười hiền: “Đó là một câu chuyện thú vị, xuất phát từ một bối cảnh khá phức tạp lúc bấy giờ”.

Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, tình hình nội tại Thanh Hóa được ví như “bó đũa rời từng chiếc”, do tình trạng mất đoàn kết trong đội ngũ lãnh đạo. Lúc bấy giờ, khi được phân công “về quê”, ông không có nhiều thời gian để đắn đo bởi “Đảng phân công thì tôi vui vẻ nhận”. Thế rồi, khi nhận nhiệm vụ, ông đã nhanh chóng bắt tay vào làm, làm hết khả năng và làm bằng lương tâm, trách nhiệm. “Còn thành quả hay mọi sự đánh giá, thậm chí là phán xét, cứ để cho bút mực thời gian và cuộc đời tự viết lên vậy”, ông tâm sự.

Trong rất nhiều vấn đề nóng bỏng của Thanh Hóa lúc bấy giờ, thì giải quyết nhu cầu lương thực và ổn định đời sống Nhân dân, là yêu cầu cấp thiết. “Nhưng vì sao lại là Sầm Sơn?”, tôi đã đặt câu hỏi và nhận được câu trả lời khá bất ngờ: “Đó là một buổi chiều, tôi cùng anh Mai Xuân Minh khi ấy là Chủ tịch UBND tỉnh, đi dọc đường Hồ Xuân Hương lên Hòn Trống Mái. Sầm Sơn đẹp lắm, không những đẹp ở cảnh mà còn quý hơn nhờ “vị thuốc” tự nhiên từ nước biển. Chả vì thế mà người Pháp trước đó gần thế kỷ, đã chọn Sầm Sơn thay vì Bãi Cháy (Quảng Ninh) hay Đồ Sơn (Hải Phòng) làm điểm nghỉ dưỡng. Tôi đã hỏi anh Minh, rồi anh Bào (Bí thư Thị ủy) rằng: “Sầm Sơn tiềm năng là vậy nhưng sao ít khách quá, hàng quán lẻ tẻ quá?”. Câu trả lời là Sầm Sơn vừa không đủ tầm, vừa không đủ sức để vực dậy du lịch”.

Với quyết tâm “tháo ngòi trì trệ” cho Sầm Sơn, ông đã đưa ra quyết định táo bạo: Xây dựng đề án phát triển du lịch Sầm Sơn. Ông kể: “Khó khăn thì nhiều lắm, song khó nhất là tìm được tiếng nói đồng thuận trong đội ngũ cán bộ, để anh em cùng xắn tay vào làm, đoàn kết để làm cho tốt”. Đó cũng là quá trình có nhiều “sự hoài nghi tích cực, nó giúp mình nhìn nhận sự việc một cách khách quan, rõ ràng, tránh ảo tưởng và điều chỉnh cách làm cho phù hợp”.

Bằng sự quyết tâm dám nghĩ, dám làm của người đứng đầu Đảng bộ tỉnh, Thanh Hóa đã khai trường hè Sầm Sơn 1989, với một “slogan” rất đơn giản nhưng mang nhiều ý nghĩa “Sầm Sơn sức khỏe - kinh tế - bạn bè” và có được những kết quả vượt mong đợi. Đó là 350 gian hàng đã tham gia hội chợ du lịch hè Sầm Sơn 1989; khoảng 3 vạn người dự lễ khai trương và khoảng 95 nghìn lượt khách lưu trú; rồi hàng chục hợp đồng kinh tế đã được ký kết... Cuối cùng là con số 5,5 tỷ đồng doanh thu, chiếm 2/3 tổng thu toàn thị xã Sầm Sơn năm 1989. Để rồi, kể từ hè Sầm Sơn 1989, khái niệm “kinh tế du lịch” đã bắt đầu được biết đến ở Sầm Sơn. Đặc biệt hơn, giữa rất nhiều “hướng gió” trái chiều, có thể xô đổ mọi ý tưởng và làm lung lay niềm tin, thì “cơn gió lạ” của mùa hè Sầm Sơn năm ấy, đã phần nào làm dịu bớt bầu không khí ngột ngạt. Và hơn hết, cái được lớn nhất của hè Sầm Sơn 1989 đã được nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa chia sẻ: “Những gì làm được từ Sầm Sơn năm ấy, đã để lại nhiều bài học quý giá. Đó là lấy công việc để đánh giá cán bộ và lấy Sầm Sơn để chứng minh Thanh Hóa có đủ cơ sở để vượt qua khó khăn. Đồng thời, sự đoàn kết và hội tụ nhân tâm từ sự kiện Sầm Sơn đã cho thấy, chúng ta sẵn sàng “gác bỏ mặc cảm” để hướng về phía trước. Từ đó, vun đắp lòng tin của Nhân dân. Và hơn hết, bài học từ Sầm Sơn là bài học thực tiễn chứ không phải bài học trên giấy tờ. Đó là bài học của việc biến thách thức thành cơ hội, bằng tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đột phá để mở ra cánh cửa phát triển cho Thanh Hóa”.

Có thể nói, từ “mùa hè dò đường” năm 1989, Sầm Sơn nay đã hoàn toàn đổi khác. Song, hè Sầm Sơn 1989 với dấu ấn của “công trình sư” Lê Huy Ngọ đã chứng minh một điều: “lý thuyết là tốt, nhưng một cuộc thực nghiệm tốt sẽ tồn tại mãi mãi”. Cho nên, phương châm “Sầm Sơn sức khỏe - kinh tế - bạn bè” được khởi xướng năm ấy, vẫn nguyên tính thời sự, thậm chí là cơ sở để Thanh Hóa định hướng phát triển sản phẩm mũi nhọn này lên một tầm cao mới, với 3 trụ cột là “con người”, “cơ sở hạ tầng” và “chiến lược”. Sầm Sơn không chỉ là đầu tàu của du lịch Thanh Hóa, mà còn là “gương mặt đại diện” cho vẻ đẹp, sự thân thiện, mến khách của xứ Thanh. Để khi nghe bản hòa ca của biển Sầm Sơn hôm nay, ta càng thêm trân trọng ý tưởng và quyết tâm thay đổi của người đứng đầu Đảng bộ tỉnh ngày ấy. Nhờ đó mà Sầm Sơn có được động lực để viết tiếp câu chuyện cổ tích thời đại mới.

Người nặng lòng với văn hóa làng xã

Có vô vàn cách hiểu về văn hóa và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước, hay một vùng đất. Với Việt Nam nói chung, Thanh Hóa nói riêng, văn hóa hình thành và phát triển gắn chặt với lịch sử dân tộc, lịch sử vùng đất này. Nó được xem là cốt lõi của sức sống dân tộc, với hệ thống các giá trị bao quát và cao đẹp, gồm “tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” (Thủ tướng Phạm Văn Đồng).

Trong hệ thống các giá trị văn hóa ấy, “làng của người Việt là một môi trường văn hóa”, khi mọi thành tố, mọi hiện tượng văn hóa được hình thành, phát triển, lưu giữ và trao truyền đến mọi cá thể, mọi thế hệ. Nói cách khác, văn hóa làng xã là cơ sở của văn hóa dân tộc. Chính vì lẽ đó, trong quá trình XDNTM, phải đề cao, coi trọng vai trò của văn hóa. Thậm chí, phải xem văn hóa làng xã là “cái lõi” của NTM.

Tuy nhiên, quá trình XDNTM, gắn với hiện đại hóa nông thôn, không phải ở đâu và lúc nào, vai trò của văn hóa cũng được đề cao như là “la bàn” dẫn định hướng. Đây cũng là điều khiến “ông cố vấn” Lê Huy Ngọ vô cùng trăn trở. Vốn nặng lòng với nông thôn, điều ông mong mỏi từ Chương trình MTQG XDNTM không chỉ là thay đổi diện mạo đời sống kinh tế - xã hội, hay nâng cao đời sống nông dân; mà song song với đó phải gìn giữ và phát huy được giá trị truyền thống tốt đẹp như tình làng, nghĩa xóm “tối lửa tắt đèn”, tinh thần đoàn kết, yêu thương san sẻ lẫn nhau khi hoạn nạn...; và cả những di tích lịch sử, văn hóa vốn gắn với tiến trình phát triển của làng xã. Có như vậy thì nông thôn dù có đổi mới, hiện đại đến mấy cũng không mất đi cái gốc tốt đẹp giúp nuôi dưỡng tâm hồn con người.

Xây dựng văn hóa NTM không phải là việc xây bao nhiêu nhà văn hóa đạt chuẩn, hay có bao nhiêu phong trào, hoạt động văn hóa được tổ chức. Quan trọng hơn, văn hóa - như cách nhìn nhận của “ông cố vấn” Lê Huy Ngọ - phải là sự hài hòa của các mối quan hệ con người với môi trường sống, con người với con người và con người với sản xuất. Bản thân ông, một người vốn “sinh ra từ làng”, càng thấm thía hơn ai hết giá trị của văn hóa truyền thống đối với sự hình thành nhân cách, nhân sinh quan, thế giới quan. Cũng bởi luôn canh cánh về những cái được - mất của văn hóa làng xã trước xu thế đô thị hóa, nên đã hơn một lần ông đã hẹn tôi về thăm quê ông. Ông muốn tôi cảm nhận rõ những mảng văn hóa cổ xưa đang dần chìm vào lớp “vôi vữa” mới của công nghiệp hóa. Nhưng rồi, vì sức khỏe không cho phép và giờ ông đã về với tổ tiên, nên tất cả đã trở thành cuộc hẹn “vô thời hạn”. Dẫu luyến tiếc nhưng tôi vẫn tin rằng, với chủ trương chấn hưng văn hóa của Đảng ta, văn hóa làng xã sẽ luôn được bảo vệ và là cội rễ cho sự tồn tại, hưng thịnh của quê hương, của đất nước.

Cả cuộc đời ông “ví như một hành trình đi qua giông bão, giữ trọn trái tim cho nông dân, nông thôn”. Để rồi, dẫu hành trình đời người đã kết thúc, nhưng hành trình kiến tạo nên “những làng quê đáng sống” ở xứ Thanh sẽ không có điểm dừng. Đó cũng là sự tri ân của quê hương dành cho ông - một “công trình sư” góp phần kiến tạo bức tranh nông thôn Việt Nam sinh thái, văn minh, hài hòa và bền vững.

Lê Dung

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/ong-bo-truong-cua-nong-dan-va-moi-duyen-no-voi-que-thanh-261918.htm