Quê hương cội nguồn trong ký ức thơ Đỗ Trọng Khơi
Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi, Sinh năm 1960, quê Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Bị liệt từ nhỏ và phải bỏ học từ năm lớp 4, Đỗ Trọng Khơi đã kiên định vượt lên số phận để tự học và trở thành một nhà văn có tên tuổi với 11 tập thơ, truyện ngắn, phê bình và nhiều giải thưởng văn học trong hai thập niên qua.
Anh quả thực là một hiện tượng hiếm có vượt lên số phận trong số những người cầm bút hôm nay.
Thời điểm năm 1989-1990, việc nhà thơ trẻ Đỗ Trọng Khơi mới 30 tuổi đã vượt lên hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của mình và đoạt giải thưởng cao trong cuộc thi thơ lớn của Báo Văn nghệ đã trở thành một sự kiện Thơ của anh liên tục xuất hiện trên các tờ báo trung ương và chương trình văn nghệ của Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam cùng các đài truyền hình đều đưa tin về anh.
Nhưng ngày ấy, có lẽ cũng ít độc giả biết được sự gian truân, khổ ải mà nhà thơ Đỗ Trọng Khơi đã phải nếm trải trong cuộc đời tật nguyền gần như chỉ gắn bó với chiếc giường cá nhân ở một làng quê xa xôi.
Đỗ Trọng Khơi là con liệt sĩ, năm 1968, hai năm sau khi bố của Khơi hy sinh ở chiến trường phía Nam, Khơi bị mắc chứng bệnh hiểm nghèo viêm đa khớp, hai chân teo dần rồi bị liệt hoàn toàn. Mẹ của Khơi cố gạt nước mắt, tần tảo lần hồi nuôi dạy 3 đứa con mồ côi.
Tình yêu quê hương thao thức trong ký ức nguyên sơ
Đỗ Trọng Khơi phải bỏ học từ năm lớp 4, sống quanh quẩn mấy chục năm trên một chiếc giường. Nhưng một nghị lực phi thường, bừng sáng quyết liệt đã giúp anh vượt qua hoàn cảnh tật nguyền của mình, để vươn lên bằng cách tự học, tự đọc, tự viết, tự sáng tạo bằng một bản năng thơ hiếm thấy ở một người bị liệt, như anh tâm sự trong mấy câu thơ của bài thơ "Cõi không gì" như sau: "Tôi tự chèo lái lấy thôi/ Con thuyền bào ảnh là tôi, hay là? Là tôi thì tôi sẽ qua/ Không là tôi cũng như là thế gian/ Tự tôi chèo lấy tôi sang/ Khi thuyền rời bến thì tan mất chèo/ Tôi là một thế gian nghèo/ Vay vũ trụ cõi trong veo không gì/ Tự tôi chèo lái tôi đi/ Đi cho hết cõi không gì mới thôi".
Suốt mấy chục năm sống và viết trên giường theo kiểu nằm nghiêng (vì hai chân bị liệt), Đỗ Trọng Khơi đã đọc hết cả một "núi sách" đủ loại, từ văn học, xã hội học đến triết học để tự mở mang, tự trau dồi kiến thức. Và có lẽ chính thi ca đã là nguồn sống nội tâm chủ yếu, đã thắp sáng và đã chắp cánh, đưa tâm hồn anh đến với mọi người và nuôi dưỡng đời sống tinh thần của anh qua những năm tháng đầy khó khăn ấy.

Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi.
Anh được cả nước biết tới như một tài năng thơ đích thực và trở thành một nhà thơ "viết nằm" nổi tiếng với 9 tập thơ, 2 tập truyện ngắn và phê bình cùng nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra, Khơi còn sáng tác hơn 30 bản nhạc, phần lớn là phổ thơ. Năm 1999, Khơi còn được giải thơ quốc tế dành cho người tàn tật của Đài truyền hình NHK (Nhật Bản).
Trong thơ Đỗ Trọng Khơi ta bắt gặp một thi giới được xây bởi những chất liệu thấm đẫm chất quê hương như ánh trăng, khói bếp, bờ sông, gió đồng, mùi rơm rạ… Nhưng chính từ những thứ gần gũi ấy, nhà thơ dựng nên tầm nhìn tư tưởng mang triết lí hiện sinh khi đời người là hành trình tự nhận thức giữa hữu hạn và khát vọng.
Về phương diện nghệ thuật, đó là bản sắc thơ tiếng Việt "thuần khiết" nhưng giàu cấu tứ và đậm chất suy tưởng khi tứ thơ thường khởi đầu từ một vật/một thời khắc cụ thể rồi khai triển theo vòng xoáy liên tưởng, kết tụ ở một điểm rơi triết lí tinh gọn như bài thơ "Ánh trăng": " Ôi ánh trăng non tươi, ánh trăng mỡ màu/ Vai mang đầy ánh trăng mà không thấy nặng/ Mắt chứa đầy ánh trăng mà không thấy chói/ Bến nước chẳng ngại e tràn dù muôn ánh trăng rơi./ Chẳng hề mòn đi, cũng chẳng cỗi già/ Trăng mãi mãi non tươi sắc trẻ/ Đã bao mùa thu bên đường bao cô bé/ Lấy tà áo hứng trăng rồi đêm đêm trong mộng khóc thầm".
Trong bài thơ này, nhà thơ phát triển một nghịch lí đẹp khi trăng vừa tràn đầy vừa không nặng, trăng ở đây là nguồn sáng vô trọng, là ý niệm về vẻ đẹp không hao mòn, nhưng cái vĩnh cửu ấy lại làm rớm buồn người đọc. Tư tưởng ở đây là mối căng thẳng giữa lý tưởng và phận người khi vẻ đẹp tuyệt đối của trăng càng rỡ ràng, thì nỗi cô đơn hữu hạn càng hiển lộ với tứ thơ từ một đối sánh trải nghiệm cảm giác để đi đến khẳng định bản thể trăng và cảm xúc của con người.
Thơ là cứu cánh hồn nhiên của cuộc đời thi sĩ
Tôi nhận thấy có hai lối trở về trong thơ Đỗ Trọng Khơi, một lối đi ngược qua nứt vỡ của hiện tại để tìm lại bóng dáng làng quê bé bỏng, và một lối lặn sâu xuống đáy ký ức nguyên sơ, nơi con người chưa kịp mang tên gọi để chạm "giấc lành như thể thuở nằm bào thai".
Ở đó, tình yêu quê hương không hiện ra như khẩu hiệu hay hồi ức khô cứng, mà là một nhu cầu sinh tồn, một cơn thao thức dằng dai của trái tim thi sĩ trước nguy cơ mất mát như mất bờ bãi sông quê, mất tiếng nói, và sâu hơn là nguy cơ đánh rơi căn tính như trong bài thơ "Về ở chiêm bao" dưới đây: "Đêm, nhìn nước rã rời trôi/ sông quê đang mất bờ rồi, a oa/ sương thì sa, nắng còn xa/ phòng riêng ta với ấm trà cùng sôi/ Xưa, đùm quê chiếc áo tơi/ câu xoan câu lý bọc người vào đông/ đàn đêm vang một tiếng "câm"/ cô trung vằng vặc có vầng trăng thôi/ Đêm, nhìn trăng rã rà rơi/ mảnh ngưng thì bạc, mảnh trôi thì vàng/ quê còn bé bỏng vóc làng/ bông bầu bông bí nở ngang giậu rào/ Thương thì về ở chiêm bao! ".
Bài thơ trên đã đưa thi sĩ trở về bằng giấc mơ trước hiện thực khắc nghiệt. Hình tượng trăng trong thơ được chia mảnh: "Đêm, nhìn trăng rã rời rơi/ mảnh ngưng thì bạc, mảnh trôi thì vàng". Trăng không còn nguyên khối, mà vỡ ra thành các "mảnh" tùy theo trạng thái "ngưng/trôi" trong cấu trúc nhị phân diễn tả cảm nhận rất tinh tế của tác giả.
Giữa biến thiên ấy, thi sĩ vẫn nhớ "quê còn bé bỏng vóc làng/ bông bầu bông bí nở ngang giậu rào". Cụm "bầu bí" không chỉ là cảnh vườn quê, mà gợi cả liên tưởng đạo lý "bầu ơi thương lấy bí cùng" như một nhịp đạo đức cộng đồng thấm từ ruộng vườn đến máu thịt.
Câu kết "Thương thì về ở chiêm bao!" là một mệnh đề vừa như tự nhắn, vừa như gọi bạn tri âm trong giấc mơ như một không gian cư trú tinh thần. Đó là "chiêm bao" mang chức năng trị liệu khi giữ nguyên tình quê, giữ ấm trí nhớ, giữ nhịp đạo lý "bầu bí" để chống lại sự "mất bờ" của cả đất đai lẫn căn tính.
Nếu bài thơ "Về ở chiêm bao" là giấc mơ trước hiện thực rạn vỡ, thì bài thơ "Như giấc bào thai" của Đỗ Trọng Khơi giống như cuộc lặn xuống nền tảng sơ sinh của sự sống cộng đồng: "Lịm vào thơm thảo tháng năm/ giấc lành như thể thuở nằm bào thai/ trong veo veo dấu hình hài/ cõi xưa xưa, cõi mai mai chợt về/ Bao nhiêu cõi gói cơn mê/ rạ rơm đậy điệm tứ bề gió đông/ thân vợ ấp ủ tình chồng/ thế gian cái cõi nhẹ bông bồng bềnh/ Ai cùng ta một nòi tình/ tấm thân mỏng chở điều linh sang ngày/ giấc lành như thuở bào thai/ mẹ ta nâng một đỡ hai dịu dàng/ Thôn làng - kia, chốn Địa đàng/ ai chờ ai đợi ta sang Con Người".
Câu thơ "Thôn làng - kia, chốn Địa đàng" không phải chi tiết tu từ mỹ miều, mà là một quyết đoán thẩm mỹ đạo đức, khẳng định thiên đường không ở đâu xa, mà ở cấu trúc đùm bọc của thôn làng. Câu kết bài "ai chờ ai đợi ta sang Con Người" như một nghi thức vượt ngưỡng, chỉ khi đi qua "thôn làng" qua trải nghiệm ký ức và đạo lý thì con người mới trở thành "Con Người" viết hoa. Tình quê trong Đỗ Trọng Khơi không phải nỗi hoài cổ an phận mà là sức đề kháng tinh thần nhằm chống đứt gãy, chống tha hóa, chống đánh rơi căn tính.
Trong thơ Đỗ Trọng Khơi dĩ nhiên có nỗi buồn và cả chút đắng cay, xa xót, chân thực và nhân bản. Và những câu thơ sau đây trong bài thơ "Cõi trần" của anh đã nói lên điều ấy: "Tôi hư ảnh, tôi xương da/ tôi khăn áo mỏng như là trần gian/ cầm câu yêu xuống Địa đàng/ hỏi thăm, đây lối về làng tôi chăng? Trời rằng, đâu vết tháng năm/ Địa đàng thì cũng y làng quê thôi/ đồng khô nỏ, xuân lộc chồi/ người thì mười tám, đôi mươi… vẫn là/ như tôi hư ảnh xương da/ Địa đàng vườn ấy cũng là làng quê".
Thơ Đỗ Trọng Khơi luôn hướng đến việc đối diện hữu hạn mà không tuyệt vọng, yêu cái đẹp bằng im lặng khi cần, lùi để tiến và mở lại thế gian không phải bằng những đại ngôn, mà bằng thao tác tinh tế của tâm hồn. Và hồn thơ của Đỗ Trọng Khơi đã chạm được vào cõi Thiền với sự chiêm nghiệm của một người thơ chịu nhiều đớn đau, thiệt thòi của số phận. Tuy vậy, thơ anh vẫn là một cứu cánh hồn nhiên, tất nhiên của cuộc đời một thi sĩ khá tài hoa và giàu suy cảm như anh.
Đỗ Trọng Khơi vẫn luôn biết cách vượt lên chính số phận mình với ngọn lửa khát khao sáng tạo văn chương để hướng tới cõi nhân văn cao cả. Và có thể, những chân giá trị con người trường sinh ngay cả trong thời gian hiện thực của thơ anh: "Mai kia ngủ giấc thiên thu/ buông tay bỏ lại tù mù thế gian/ Vầng trăng đáy nước ngấn vàng/ từ lâu ta đã để tang ta rồi/ Bây giờ dắt cỏ rong chơi/ cỏ ơi, những dấu con người còn không? Bây giờ dắt gió lông nhông/ gió ơi, đáy của mênh mông chỗ nào/ Từ ngày biết có chiêm bao/ dắt tay hư ảo tìm vào gọi tên! ".











