So với chuẩn, các chỉ số của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đều vượt
Theo báo cáo thường niên năm 2025, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh có 5 giáo sư/459 giảng viên.
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh là trường đại học công lập trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập từ ngày 16/12/1976.
Theo thông tin đăng tải trên website, sứ mạng của trường là cung cấp cho xã hội và ngành ngân hàng nguồn nhân lực chất lượng cao, các nghiên cứu có tầm ảnh hưởng, cùng với dịch vụ tư vấn và hoạt động phục vụ cộng đồng. Nhà trường kiến tạo hệ sinh thái giáo dục, mang đến cơ hội học tập suốt đời, phát triển con người toàn diện, sáng tạo, với tinh thần phụng sự.
Hiện Nhà giáo ưu tú, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Thanh Hà là Chủ tịch Hội đồng trường; Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Trung là hiệu trưởng nhà trường.

Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website nhà trường.
Theo quy định, từ ngày 19/07/2024, các cơ sở giáo dục thực hiện báo cáo thường niên theo Thông tư số 09/2024/TT-BGDĐT (thay thế Thông tư số 36/2017/TT-BGDĐT) của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về công khai trong hoạt động của các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Thời điểm công khai trước 30/6 hàng năm.
Thời gian qua, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được phản ánh của phụ huynh khi tìm hiểu Báo cáo thường niên năm 2025 của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều thông tin chưa rõ.
Để có thêm thông tin chính xác, khách quan đến phụ huynh và xã hội, phóng viên Tạp chí đã tiến hành tìm hiểu báo cáo thường niên và liên hệ gửi câu hỏi tới nhà trường nhằm giải đáp một số băn khoăn của độc giả.
Tỷ lệ giảng viên đạt trình độ tiến sĩ vượt chuẩn nhưng số giáo sư còn hạn chế
Theo bảng thống kê đội ngũ giảng viên, viên chức quản lý và nhân viên tại Báo cáo thường niên năm 2025 của nhà trường cho thấy: tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của nhà trường trong năm 2024 đạt 44,14%, (vượt tỷ lệ theo Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT yêu cầu), tăng 2,74% so với năm 2023.
Tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ theo điểm b, tiêu chí 2.3, Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định: “Không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ”.
Liên quan đến vấn đề này, trong văn bản phản hồi Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, trong những năm qua, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên của trường tăng nhanh và tăng đều qua các năm, từ cả nguồn phát triển giảng viên nội bộ của trường cũng như nguồn tuyển dụng mới. Để đạt được kết quả ấn tượng như vậy, nhà trường đã áp dụng nhiều chính sách:
Thu hút, giữ chân bằng chế độ lương thưởng hấp dẫn so với mức trung bình của ngành và các trường hiện nay, thưởng khi tuyển dụng về trường hoặc giảng viên trong trường đạt học vị tiến sĩ, học hàm giáo sư, phó giáo sư với các mức tương ứng từ 30 đến 80 triệu đồng; thưởng và hỗ trợ khi có các công bố quốc tế, các công trình nghiên cứu khoa học các cấp (bài báo quốc tế có thể được thưởng lên tới 100 triệu đồng/1 bài).
Đồng thời trường cũng thu hút, giữ chân bằng môi trường làm việc, cộng đồng khoa học, tôn trọng, đề cao năng lực sáng tạo, tư duy học thuật độc lập, phát huy năng lực, sở trường của từng giảng viên cũng như thu hút bằng chính sách quản lý nhân lực chuyên nghiệp, cơ chế thông thoáng, lấy hiệu quả công tác làm trọng tâm.
Trong các năm vừa qua, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trường có số lượng giảng viên đạt chuẩn chức danh và được bổ nhiệm học hàm giáo sư, phó giáo sư khối ngành kinh tế hàng đầu Việt Nam.

Số liệu về đội ngũ giang viên, cán bộ quản lý và nhân viên tại Báo cáo thường niên 2025 của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh chụp màn hình.
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh hiện có tổng cộng 459 giảng viên toàn thời gian. Tuy nhiên, chỉ có 5 giảng viên đạt chức danh giáo sư, phân bổ ở các lĩnh vực gồm Toán và Thống kê; Kinh doanh và Quản lý, nhiều lĩnh vực của trường chưa có giảng viên đạt chức danh giáo sư.
Về vấn đề này, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Giáo sư là đội ngũ đặc biệt tinh hoa nên việc phấn đấu đạt được học hàm giáo sư không phải dễ dàng. Thực tế, số lượng giáo sư ở các trường đại học hiện nay cũng rất khiêm tốn.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỷ lệ giáo sư trong tổng số 91.279 giảng viên toàn thời gian năm 2024 là 0.81%. Theo số liệu đến 31/12/2024, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh có 5 giáo sư/459 giảng viên là cao hơn mức bình quân của cả nước.
Tính đến ngày 20/11/2025, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh có 15 giáo sư/503 giảng viên, tức gấp 5 lần mức trung bình của cả nước. Tuy số lượng chưa quá nhiều, nhưng chất lượng và sự gia tăng của đội ngũ giáo sư đã thể hiện chất lượng đội ngũ, cũng như sự quan tâm và tạo điều kiện tối đa của nhà trường trong việc phát triển đội ngũ tinh hoa này.
Để có được kết quả này, trường đã áp dụng nhiều chính sách để khuyến khích, tạo điều kiện cho giảng viên làm giáo sư, phó giáo sư. Trước hết là hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để giảng viên có thể đáp ứng các điều kiện về nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế, hướng dẫn học viên cao học, nghiên cứu sinh, giảng dạy...
Đồng thời hỗ trợ tối đa trong các thủ tục, hồ sơ xét đạt chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư; Bổ nhiệm ngạch giảng viên cao cấp đối với giảng viên đạt chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư với thang bảng lương nhiều ưu đãi.
Ngoài ra, trường vinh danh và khen thưởng khi giảng viên đạt chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư (từ 50 đến 80 triệu đồng); Đưa vào quy hoạch, bổ nhiệm và tạo điều kiện để các giáo sư, phó giáo sư tham gia đào tạo chuyên gia đầu ngành, để đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của trường, của ngành ngân hàng và xã hội.
Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn của nhà trường đạt 55,5%
Theo bảng chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo năm 2024, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn của nhà trường đạt 55,5%.
Chia sẻ về nguyên nhân khiến 44,5% còn lại sinh viên tốt nghiệp không đúng hạn, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn của trường năm 2024 là 55,5% đạt vượt chuẩn trên 40% theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đây là tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn của tất cả sinh viên các bậc, hệ đào tạo của Trường. Riêng đại học chính quy, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn năm 2024 đạt 69.88% (dữ liệu trên hệ thống HEMIS).
Thực tế, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn ở các trường đại học khác cũng khá khiêm tốn. Việc đạt tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn vượt trên chuẩn quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo là kết quả của quá trình triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp học vụ của nhà trường trong những năm gần đây. Mặc dù không ít sinh viên gặp khó khăn khi chuyển từ môi trường trung học phổ thông với chương trình học cố định sang mô hình đào tạo theo tín chỉ, vốn đòi hỏi tính tự chủ và khả năng tự tổ chức cao.
Do vậy, trong những năm gần đây nhà trường đã tập trung triển khai đồng bộ nhiều giải pháp: Tăng cường vai trò cố vấn học tập nhằm theo dõi sát sao tiến độ từng sinh viên và hỗ trợ điều chỉnh kế hoạch học tập; áp dụng hệ thống cảnh báo sớm để nhận diện và hỗ trợ kịp thời sinh viên có nguy cơ chậm tiến độ; tổ chức các buổi hướng dẫn xây dựng kế hoạch học tập và đăng ký tín chỉ cho sinh viên năm nhất; mở các workshop nâng cao kỹ năng tự học, quản lý thời gian, phương pháp nghiên cứu và khả năng thích ứng môi trường đại học.
Đồng thời, nhà trường cũng cải thiện hình thức cung cấp thông tin về chương trình đào tạo thông qua bản đồ học tập, website và tài liệu hướng dẫn; kết hợp tăng cường hỗ trợ tâm lý, hướng nghiệp nhằm giúp sinh viên giảm căng thẳng, củng cố động lực và duy trì tiến độ học tập ổn định.
Tỷ trọng thu từ khoa học - công nghệ vượt chuẩn
Theo Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT, số lượng công bố khoa học và công nghệ tính bình quân trên một giảng viên toàn thời gian không thấp hơn 0,3 bài/năm; riêng đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ không phải trường đào tạo ngành đặc thù không thấp hơn 0,6 bài/năm trong đó số bài có trong danh mục Web of Science hoặc Scopus (có tính trọng số theo lĩnh vực) không thấp hơn 0,3 bài/năm.
Theo bảng các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học và công nghệ, số công bố khoa học/giảng viên của trường năm 2024 là 0,9 bài/năm, trong khi đó năm 2023 là 1,2 bài/năm; số công bố WoS, Scopus/ giảng viên năm 2024 là 0,4 bài/năm, trong khi đó năm 2023 là 1,2 bài/năm.

Các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học và công nghệ của của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh chụp màn hình.
Chia sẻ nguyên nhân dẫn đến số liệu có sự sụt giảm ở 2 chỉ số liên quan đến hoạt động nghiên cứu và công bố khoa học như trên, nhà trường cho hay: “Có thể khẳng định rằng, các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học, công nghệ của trường trong những năm gần đây đều vượt so với yêu cầu của Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT về chuẩn cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, trong báo cáo của trường có một số thay đổi về các chỉ số công bố khoa học trong năm 2024 so với năm 2023 là sự khác biệt trong phương pháp thu thập, chuẩn hóa và đối soát dữ liệu giữa hai kỳ thống kê.
Năm 2024, Trường thực hiện chuẩn hóa và đồng bộ toàn bộ dữ liệu khoa học và công nghệ lên hệ thống HEMIS theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các dữ liệu công bố khoa học được lọc, đối chiếu và xác thực theo đúng tiêu chuẩn, bao gồm: loại bỏ trùng lặp; phân loại rõ bài thuộc năm công bố; kiểm tra chỉ số WoS/Scopus theo thời điểm xuất bản; xác định chính xác tác giả thuộc biên chế giảng viên cơ hữu.
Trong khi đó, năm 2023, về tỷ lệ công bố khoa học/giảng viên, dữ liệu được tổng hợp về công bố khoa học được thống kê bao gồm cả sách xuất bản, trong khi đó năm 2024 hệ thống HEMIS chỉ tính các công bố dựa trên chỉ số ISSN nên số lượng có giảm xuống.
Về số công bố Wos, Scopus, trong quá trình tổng hợp, có sự thiếu thống nhất giữa số lượng bài báo quốc tế và bài công bố quốc tế bao gồm cả các công bố trong các hội thảo quốc tế có xuất bản, do vậy, năm 2024, khi hệ thống HEMIS của Bộ Giáo dục và Đào tạo thống kê công bố Wos, Scopus chỉ bao gồm các bài báo, do vậy tỷ lệ công bố quốc tế năm 2023 cao hơn so với cách tính năm 2024.
Như vậy, sự giảm tương đối của các chỉ số công bố trong năm 2024 không phản ánh sự suy giảm hoạt động nghiên cứu, mà chủ yếu đến từ việc chuẩn hóa và tách riêng các loại hình công bố theo quy định của hệ thống HEMIS.
Về kết quả tài chính, báo cáo thường niên cho thấy tổng thu hoạt động của nhà trường trong năm 2024 là 642.28 tỷ đồng. Trong đó, chiếm phần lớn là nguồn thu từ học phí với 472 tỷ đồng còn nguồn thu từ khoa học và công nghệ đạt 31.62 tỷ đồng, chiếm 4.9% tổng nguồn thu năm 2024.

Về sự chênh lệch lớn giữa nguồn thu từ học phí và nguồn thu từ khoa học công nghệ, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, số liệu 4.9% là tỷ trọng tính trên dữ liệu tài chính của riêng năm 2024.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Thông tư 09/2024/TT-BGDĐT và Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT thì số liệu Tỷ trọng thu từ các hoạt động khoa học - công nghệ trên tổng thu của cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ (có tính trọng số theo lĩnh vực) của năm báo cáo là số liệu tính trung bình trong 3 năm gần nhất. Việc thống kê theo phương pháp bình quân nhằm hạn chế những tác động từ con số phản ánh không đúng thực tế. Ví dụ, hợp đồng nghiên cứu khoa học triển khai 1,5 năm sẽ chỉ được tính toán cho năm tiếp theo khi kết thúc việc chuyển giao và thanh lý.
Do đó, số liệu công khai tại mục VI về Tỷ trọng thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ năm 2024 là 8.6% (tính trung bình 3 năm 2022, 2023, 2024), đây là số liệu tăng so với Tỷ trọng thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ năm 2023 là 5.4% (tính trung bình 3 năm 2021, 2022, 2023).
Như vậy, căn cứ Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt chuẩn cơ sở giáo dục đại học năm 2024 ở Tỷ trọng thu từ các hoạt động khoa học - công nghệ năm là 8.6%, vượt mức 3.6% so với mức ngưỡng đạt chuẩn quy định 5%.
Thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, nhà trường đang triển khai các chính sách đối với hoạt động khoa học công nghệ như: Khẳng định nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển của nhà trường, tăng cường đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ .
Ngoài ra, nhà trường cũng thực hiện các chính sách phù hợp về mặt nhân sự để thu hút, bồi dưỡng đội ngũ các chuyên gia, nhà nghiên cứu nhằm phát triển đội ngũ khoa học của trường. Phát triển đồng thời hoạt động nghiên cứu theo hướng học thuật và ứng dụng nhằm thúc đẩy thương mại hóa và cung cấp dịch vụ khoa học và công nghệ.
Đồng thời kết nối với các nhà khoa học trong và ngoài nước, các đối tác hoạt động trong các lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu của trường hướng tới hình thành hệ sinh thái đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao











