Tạo sinh kế bền vững - nền tảng giúp người dân thoát nghèo
Là một trong những xã vùng cao có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn của tỉnh Phú Thọ, Đà Bắc đang nỗ lực thực hiện tốt công tác giảm nghèo bền vững thông qua việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư để tạo sinh kế bền vững cho người dân. Đó là chia sẻ của ông Đào Đức Kiên - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) xã Đà Bắc với Báo Kiểm toán.

Nhiều mô hình sinh kế của người dân đang được hỗ trợ nguồn lực từ Chương trình mục tiêu giảm nghèo
Thưa ông! Thực hiện Chương trình giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của địa phương. Xin ông cho biết từ sau sáp nhập đến nay, công tác này đã được xã triển khai như thế nào?
Xã Đà Bắc sau khi sáp nhập, công tác giảm nghèo tiếp tục được Đảng ủy, UBND xã quan tâm chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ các giải pháp để giảm nghèo bền vững.
Tính sơ bộ đến cuối năm 2025, toàn xã còn có 878 hộ nghèo đa chiều, chiếm hơn 18,09% tổng số hộ (4.852 hộ), trong đó: Số hộ nghèo: 300 hộ, tỷ lệ hộ nghèo 6,18%; Số hộ cận nghèo: 578 hộ, tỷ lệ hộ cận nghèo 11,91%, giảm mạnh so với giai đoạn trước sáp nhập.

Ông Đào Đức Kiên - Phó Chủ tịch UBND xã Đà Bắc
Để hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) giảm nghèo bền vững (dự án 5), Đà Bắc thực hiện xóa nhà tạm, nhà dột nát đối với 182 hộ, tổng kinh phí 5.500 triệu đồng; trong đó, xây mới 93 hộ với số tiền 3.720 triệu đồng, sửa chữa 89 căn với số tiền 1.780 triệu đồng, tạo chỗ ở ổn định cho người dân để tập trung lao động sản xuất.
Đồng thời, UBND xã xây dựng và triển khai thực hiện 2 dự án hỗ trợ sản xuất chăn nuôi bò sinh sản và chăn nuôi lợn sinh sản, tổng nguồn vốn hỗ trợ khoảng 900 triệu đồng, giúp nhiều hộ có nguồn sinh kế ổn định.
Việc triển khai Chương trình MTQG về giảm nghèo bền vững trên địa bàn xã đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực.
Dấu ấn nổi bật nhất mà Chương trình mang lại chính là việc hình thành và nhân rộng được các mô hình sinh kế phù hợp với điều kiện của địa phương. Nhiều mô hình đã và đang phát huy hiệu quả rõ rệt, như: Mô hình trồng rau, quả theo hướng an toàn, gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm cho hộ nghèo và cận nghèo; Mô hình chăn nuôi bò sinh sản, có hỗ trợ kỹ thuật thú y và tập huấn chuyển giao công nghệ; Mô hình đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho xuất khẩu lao động, giúp nhiều thanh niên thuộc hộ nghèo có thu nhập ổn định và thoát nghèo bền vững.
Cùng với đó là sự thay đổi về tư duy, nhận thức và tinh thần tự vươn lên của người dân. Nếu như trước đây, phần lớn hộ nghèo còn trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước thì nay, nhiều hộ đã chủ động tiếp cận các chính sách, mạnh dạn vay vốn, học nghề, chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi, từng bước nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống.
Bên cạnh những kết quả đạt được, địa phương còn gặp những khó khăn gì trong quá trình triển khai Chương trình giảm nghèo thưa ông?
Quá trình triển khai Chương trình giảm nghèo vẫn gặp một số khó khăn như: Quy mô địa bàn xã sau sáp nhập lớn hơn, trong khi nguồn lực hỗ trợ còn hạn chế, dẫn đến việc triển khai một số chính sách chưa kịp thời.
Điều kiện địa hình xã chủ yếu đồi núi xen khe suối, độ dốc lớn, nên gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội, trong khi hạ tầng trên địa bàn chưa đồng bộ, nhiều thôn, xóm còn gặp khó khăn về giao thông, điện, thủy lợi ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư và mở rộng sản xuất.
Các hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ người phụ thuộc trong gia đình trên 50% gồm trẻ em, người cao tuổi hoặc người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng. Người trong độ tuổi lao động chưa chưa qua đào tạo nghề hoặc chưa có bằng cấp, chứng chỉ giáo dục.
Bên cạnh đó, giá cả vật tư, chi phí sản xuất tăng cao; đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp chưa ổn định cũng là những yếu tố tác động trực tiếp đến thu nhập của các hộ nghèo. Cùng với đó, thiên tai, dịch bệnh vẫn thường xảy ra, tác động trực tiếp đến đời sống và sản xuất của người dân. Sau mỗi đợt thiên tai, dịch bệnh, nhà cửa, ruộng vườn của người dân bị hư hại, vật nuôi bị tiêu hủy khiến nhiều hộ vừa thoát nghèo lại tái nghèo.
Trong thời gian tới, cấp ủy chính quyền xã sẽ tiếp tục huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng mô hình hiệu quả; đồng thời phối hợp với các ngành cấp trên tháo gỡ khó khăn. Xã Đà Bắc kỳ vọng sẽ đạt được các mục tiêu giảm nghèo bền vững, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới xây dựng cộng đồng hạnh phúc.
Từ thực tiễn triển khai Chương trình giảm nghèo, ông có thể cho biết những bài học kinh nghiệm mà địa phương đúc rút được trong thời gian qua?

Cùng với hỗ trợ sinh kế, Chương trình giảm nghèo còn hỗ trợ chi phí giúp người dân xóa nhà tạm, ổn định cuộc sống
Từ thực tiễn triển khai, để thực hiện tốt công tác giảm nghèo, chúng tôi rút ra một số bài học ý nghĩa như: Lấy người dân làm trung tâm, mọi chính sách hỗ trợ phải dựa trên nhu cầu thực tế, sở trường và điều kiện của từng nhóm hộ. Kết hợp hỗ trợ “có điều kiện”, vừa tạo động lực, vừa nâng cao trách nhiệm và tính tự lực của hộ nghèo. Đẩy mạnh liên kết sản xuất - tiêu thụ, bởi chỉ khi sản phẩm có đầu ra ổn định thì mô hình sinh kế mới phát huy được hiệu quả lâu dài.
Linh hoạt, kịp thời tháo gỡ khó khăn, nhất là về vốn, kỹ thuật và thông tin thị trường, để bảo đảm không hộ dân nào bị bỏ lại phía sau. Đặc biệt, cần tăng cường vai trò của cộng đồng, đặc biệt là sự tham gia của các hội, đoàn thể trong vận động, giám sát và hỗ trợ người dân áp dụng các mô hình sinh kế.
Có thể nói, những bài học và mô hình được triển khai thành công trong thời gian qua chính là nền tảng quan trọng để xã tiếp tục triển khai hiệu quả công tác giảm nghèo bền vững trong giai đoạn tới.
Ông có kiến nghị gì để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực Chương trình giảm nghèo giai đoạn tới?
Là một trong những xã còn nhiều khó khăn, chúng tôi xác định việc huy động và phân bổ nguồn lực từ Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong thời gian qua, các nguồn lực hỗ trợ của chương trình đã được triển khai tương đối đầy đủ, kịp thời và đến đúng các nhóm đối tượng yếu thế, nhất là hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Người dân đã được thụ hưởng các chính sách như hỗ trợ phát triển sinh kế, vay vốn ưu đãi, đào tạo nghề, hỗ trợ nhà ở, y tế, giáo dục… góp phần giảm bớt gánh nặng kinh tế và tạo điều kiện để họ tự vươn lên.
Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tế, nhất là tại một xã nghèo với nhiều vấn đề phát sinh, thì nguồn lực hiện có vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu đặt ra. Một số nhóm ngành nghề, mô hình sinh kế còn thiếu vốn đầu tư ban đầu; hỗ trợ sản xuất chưa đồng bộ; một số hạng mục hạ tầng thiết yếu phục vụ dân sinh vẫn cần được tăng cường.

Nhiều mô hình sinh kế tại Đà Bắc đã và đang phát huy hiệu quả rõ rệt. Ảnh: Nguyễn Lộc
Để nâng cao hiệu quả trong tình hình mới, chúng tôi kiến nghị: tăng cường phân bổ nguồn vốn cho các xã nghèo, đặc biệt là vốn cho mô hình sinh kế đặc thù phù hợp điều kiện địa phương. Điều chỉnh theo hướng linh hoạt hơn trong cơ cấu chi, giúp địa phương chủ động lựa chọn mô hình thiết thực, phù hợp nhu cầu người dân.
Đẩy mạnh lồng ghép các nguồn lực từ các chương trình, dự án khác nhằm tạo hiệu quả tổng hợp. Đồng thời, trong quá trình triển khai chương trình, cần tăng cường tập huấn, chuyển giao kỹ thuật để người dân sử dụng hiệu quả nguồn hỗ trợ, gắn hỗ trợ với hướng dẫn cách làm.
Chúng tôi tin rằng, với sự quan tâm của Nhà nước và sự đồng thuận của người dân, nếu nguồn lực được điều chỉnh theo hướng sát thực tế hơn thì Chương trình sẽ tiếp tục mang lại hiệu quả rõ rệt, góp phần giảm nghèo bền vững và nâng cao đời sống cho nhân dân trên địa bàn.
Trong những năm qua, Kiểm toán nhà nước (KTNN) đã thể hiện vai trò hết sức quan trọng trong công tác kiểm toán việc quản lý tài chính công, tài sản công tại địa phương. Thông qua hoạt động kiểm toán định kỳ và chuyên đề, KTNN đã giúp địa phương nhìn nhận đầy đủ, khách quan hơn về tình hình quản lý, sử dụng ngân sách; việc thực hiện các chương trình, dự án đầu tư công; cũng như hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ giảm nghèo.
Từ các kiến nghị của KTNN, địa phương đã có cơ sở quan trọng để điều chỉnh phương thức quản lý, hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức thực thi công vụ.
Ông Đào Đức Kiên - Phó Chủ tịch UBND xã Đà Bắc












