'Thêm đời sống khác' cho văn học dân gian của người Dao

Đưa văn học, tri thức dân gian vào các tác phẩm đương đại, nhà thơ dân tộc Dao LÝ HỮU LƯƠNG (Tạp chí Văn nghệ Quân đội) mong muốn dẫn dắt người đọc vào không gian sinh hoạt văn hóa của cộng đồng người Dao, nghe kể chuyện về cội nguồn văn hóa dân tộc mình một cách tự nhiên nhất.

Đưa tri thức dân gian Dao vào thơ "như không khí để thở"

- Kho tàng tri thức dân gian của người dân tộc thiểu số nói chung, người Dao nói riêng rất phong phú và đa dạng. Anh đã sử dụng nguồn tri thức này như thế nào trong các sáng tác của mình?

- Năm 2021, tôi được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng Tác giả trẻ lần thứ nhất cho tập thơ “Yao” gồm 35 bài thơ với chủ đề xuyên suốt về người Dao, bao gồm văn hóa, bản sắc, tập tục của người Dao... Tôi không “chuyển thể” tri thức dân gian Dao sang thơ theo kiểu minh họa, mà để nó làm nền ký ức cho cách nghĩ, cách nói.

Từ truyện Bàn Hồ, phả hệ mười hai họ, những cuộc thiên di, lễ cấp sắc… tôi không kể lại nguyên văn mà rút lấy vài chi tiết, vài huyền thoại trọng tâm rồi nén lại thành những hình tượng thơ có sức cảm, gợi hình. Qua những lời hát và âm nhạc, tôi học nhịp thơ từ tiếng ru, khúc Páo dung, cách hô - đáp trong dân ca Dao; nhiều bài cố ý giữ nhịp điệp cú như một cách cho thơ bước đi trên tiết tấu quen thuộc của bản làng, dù dùng tiếng Việt phổ thông.

Qua các nghi lễ, điệu múa, trò chơi (lễ cấp sắc, lễ Bàn Vương, nhảy lửa…) với một động tác, một động từ, mùi khói, ánh lửa, tiếng trống, đủ để gợi một “trường nghi lễ” phía sau câu chữ. Tôi muốn văn học, tri thức dân gian Dao đi vào thơ như không khí để thở, chứ không như đạo cụ được bày ra cho người đọc ngắm.

- Trong quá trình khai thác tri thức, văn học dân gian để làm chất liệu sáng tác, là một người Dao, anh gặp thuận lợi và khó khăn gì?

- Quá trình sử dụng văn học nghệ thuật dân gian của người Dao để sáng tác, tôi gặp khá nhiều khó khăn. Trong đó, khó nhất là tôi không phải nhà dân tộc học, mà chỉ là một người viết trẻ. Tri thức dân gian của người Dao phần lớn tồn tại trong lời kể, lời hát của người già, trong sách cúng… mà tôi thì không đọc được chữ Nôm Dao hay Hán văn, nên luôn sợ mình hiểu nhầm, giản lược hoặc "làm phẳng" những điều rất phức tạp của tổ tiên.

Bên cạnh đó là ranh giới giữa sáng tạo và minh họa. Nếu đưa văn học nghệ thuật dân gian vào thơ chỉ để cho lạ mắt, lạ tai thì rất dễ biến văn hóa Dao thành thứ trang trí. Những điều đó khiến tôi luôn phải đấu tranh với chính mình để: một là trung thành với tinh thần của truyện kể, nghi lễ; hai là vẫn dám cắt bỏ, chưng cất, biến đổi cho phù hợp với ngôn ngữ thơ hôm nay.

Cuối cùng là bài toán ngôn ngữ, nhiều cảm xúc, nhiều khái niệm trong lời hát, lời cúng Dao khi chuyển sang tiếng Việt phổ thông dễ bị mất sắc thái. Đôi khi phải thử đi thử lại, vừa nghe lại người già hát, vừa đọc thêm tư liệu, vừa lắng nghe phản hồi của bạn bè… để mỗi khi mượn một chi tiết dân gian, mình không “phản bội nguồn nước mà mình đang uống".

Lấy quê hương, tộc người làm trung tâm chủ đề sáng tác

- Người đọc nhận xét các sáng tác của anh đậm chất trữ tình - sử thi, luôn lấy quê hương, tộc người làm trung tâm chủ đề sáng tác. Anh nghĩ sao về điều này?

- Nếu nói cụ thể thành tác phẩm, thì trước hết là tập sách Người đàn bà cõng trăng đỉnh Cô-san (thơ, 2013), với các bài như Người đàn bà cõng trăng đỉnh Cô-san, Chiến mã, Khuôn mặt làng, Cỏ bông đỏ… đã manh nha thế giới bản làng, lễ tục, ký ức Dao qua hình tượng người đàn bà, con ngựa, páo dung, khuôn mặt làng.

Tập Yao (thơ, 2021) là “không gian Dao” trọn vẹn, với các bài như Khuôn mặt làng, Chái bếp, Cấp sắc, Bài ca thiên di, Người Dao, Phả hệ, Tiếng nói dân tộc tôi, Sinh mệnh… viết trực diện về lịch sử thiên di, lễ cấp sắc, páo dung, Bàn Vương, đời sống tinh thần người Dao. Giai đoạn gần đây, tôi tiếp tục đào sâu chất liệu dân gian Dao, thể hiện rõ ở chùm thơ: Ngày mẹ sinh tôi, Xin về hiếu thuận với quê hương, Người gấp mình lại trong chăn... như một nhịp nối mới với kho truyện kể và ký ức tộc người.

Nghi lễ đám cưới của cô dâu Hoàng Nhung và chú rể Triệu Kim (người Dao) bên đội kèn Pí lè. Ảnh: Nguyễn Sơn Tùng

Nghi lễ đám cưới của cô dâu Hoàng Nhung và chú rể Triệu Kim (người Dao) bên đội kèn Pí lè. Ảnh: Nguyễn Sơn Tùng

- Văn học dân gian rất có giá trị và ý nghĩa đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Anh có kỳ vọng gì khi khai thác tri thức gian dân để làm giàu cho kho tàng văn hóa dân tộc Dao?

- Mỗi khi chạm vào văn học dân gian của người Dao, tôi nghĩ mình không lấy đi mà cố gắng thêm một đời sống khác cho nó. Thứ nhất, bằng thơ tiếng Việt, tôi muốn giữ lại một phần hơi thở lời kể, lời hát, nghi lễ của người Dao trong một hình thức có thể lưu truyền rộng hơn. Nhiều câu chuyện, điệu hát nếu chỉ nằm trong trí nhớ người già thì rất dễ mất. Khi được chuyển hóa thành hình tượng, thành giọng điệu trong thơ, nó có thêm “nơi ở” mới.

Thứ hai, khi đưa chất liệu Dao vào đối thoại với những vấn đề của người trẻ hôm nay, tôi hy vọng chứng minh rằng văn hóa Dao không chỉ thuộc về quá khứ, mà còn có khả năng nói về hiện tại, về tương lai. Theo cách đó, văn hóa không chỉ được bảo tồn, mà còn được mở rộng biên độ ý nghĩa.

Nếu may mắn, thơ của tôi có thể giúp một vài bạn trẻ người Dao nhận ra tiếng nói của chính mình trong văn chương, dám tin rằng chuyện của bản làng, của tộc người cũng xứng đáng bước vào sách vở. Khi ấy, điều làm giàu lớn nhất cho kho tàng văn hóa Dao có lẽ không phải vài bài thơ của tôi, mà là việc có thêm nhiều người Dao trẻ tiếp tục kể tiếp câu chuyện của mình.

- Xin cảm ơn anh!

(Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp thực hiện)

Hương Sen thực hiện

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/them-doi-song-khac-cho-van-hoc-dan-gian-cua-nguoi-dao-10399723.html